Từ sau tổng tiến công nổi dậy mùa xuân Mậu Thân (1968), mức độ chiến tranh diễn ra vô cùng ác liệt trên chiến trường thị xã Bến Tre. Sư đoàn 9 Mỹ, sư đoàn 7 ngụy liên tục càn quét, chà xát bom đạn vào các xã vùng ven.
Trên các trục lộ giao thông, các cửa khẩu vành đai, bến đò, bến xe, bọn cảnh sát, mật vụ, chiêu hồi luôn rình rập, xét hỏi hòng tìm bắt cán bộ CK (công khai) của ta. Chúng tăng cường mạng lưới công an, mật vụ, khôi phục bộ máy kềm kẹp, đóng thêm đồn bót hòng bảo vệ vành đai Thị xã.
Để thuận lợi cho việc chỉ đạo phong trào cách mạng ở nội ô, năm 1971, Thị xã ủy và các ban, ngành trực thuộc chuyển căn cứ từ ấp 6, xã Lương Phú, huyện Giồng Trôm đến xã Phước Thạnh, huyện Châu Thành. Hồi ấy, chúng tôi thường gọi là Châu Thành Nam hoặc cánh 3 Thị xã. Chỉ còn vài bộ phận ở lại cánh 1 phía tả ngạn sông Bến Tre.
Trước mắt, từng cơ quan, đơn vị sắp xếp tổ chức, phân công cán bộ bám sát địa bàn hoạt động, xây dựng phát triển thực lực cách mạng. Một số cán bộ đảng viên CK “chốt” trong nội ô để tuyên truyền, vận động, gầy dựng cơ sở. Ban Thanh niên - Học sinh (tiền thân Thành Đoàn Bến Tre ngày nay) của chúng tôi có điều kiện tiếp cận, chỉ đạo cơ sở bên trong nội ô tốt hơn. Một số đồng chí được Thường vụ Thị xã ủy lo cho có được thẻ căn cước của địch để tiện bề hoạt động, tạm xem như có “lá bùa hộ mệnh”. Nói là nói vậy, chứ không may gặp bọn chiêu hồi thì vào “Ty thẩm vấn” là cái chắc. Cơ quan của chúng tôi khi đóng ở ấp 1, lúc ở ấp 2, ấp 3, xã Phước Thạnh; có thời gian chuyển qua xã Phú An Hòa, Châu Thành.
Có một kỷ niệm ở Phú An Hòa, mãi đến tận bây giờ hơn 40 năm trôi qua, tôi vẫn không quên. Một lần nọ, từ nội ô, tôi về căn cứ vào chiều hôm trước. Sáng sớm hôm sau, khi trời còn tờ mờ, địch đánh biệt kích vào ngay cơ quan chúng tôi. Bọn chúng nổ súng ở cự ly rất gần nhưng may mắn không một ai bị thương. Nếu hôm ấy Hà Thanh Hùng (hiện nay là Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Bến Tre) và anh Tư Ng. không phát hiện kịp thời thì chắc chắn cơ quan bị tổn thất không nhỏ. Nếu tính theo đường chim bay từ “Chi khu Trúc Giang” của địch đến căn cứ Ban Thanh niên - Học sinh khoảng cách không xa, chỉ độ ba cây số. Dù Hiệp định Paris về Việt Nam đã ký kết (27-1-1973), bọn địch vẫn tăng cường đánh phá, lấn chiếm trái phép. Chúng tìm mọi cách phong tỏa các cửa khẩu. Đây là thời kỳ Thị xã ủy, các cơ quan, công an, lực lượng vũ trang thiếu hụt lương thực trầm trọng. Mọi người thường xuyên ăn rau cháo thay cơm. Dù gian nan, thiếu thốn trăm bề nhưng tất cả đều làm việc hết sức mình, vẫn tràn đầy niềm tin thắng lợi cách mạng.
Thời gian cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ cũng là thời điểm ác liệt nhất. Trên khắp mọi miền đất nước, phong trào đấu tranh ngày càng dâng cao. Những cuộc mít-tinh, xuống đường biểu tình đòi tự do dân chủ, đòi độc lập dân tộc của sinh viên, học sinh Sài Gòn - Huế - Đà Nẵng… diễn ra liên tục. Những đêm văn nghệ “Hát cho đồng bào tôi nghe”, “Hát từ đồng hoang”, “Dậy mà đi”, “Nối vòng tay lớn”, “Tự nguyện”, “Tiếng hát những đêm không ngủ”… và những giai phẩm trong học đường ra hàng loạt với nội dung phản chiến. Trong tuyển tập thơ “Ta đã lớn lên bên này Châu Á” do Tổng đoàn Học sinh Sài Gòn xuất bản năm 1971 có bài thơ “Tim Việt Nam” của sinh viên Hữu Đạo. “Sáng nay con ra phố/Thấy người nằm chết co ro bên vỉa hè/Giữa chợ đời lấn chen/Má ơi, nếu con vứt được trái tim và bôi bùn lên óc/Thì đời con hạnh phúc biết bao nhiêu”.
Những vần thơ ấy đã có sức lôi cuốn mạnh mẽ vào trái tim, khối óc của những con người luôn khát khao mãnh liệt về hòa bình, thống nhất đất nước. Từ những vùng giải phóng cho đến thành thị, ở đâu cũng có tiếng nói yêu chuộng hòa bình.
Tại thị xã Bến Tre, phong trào đấu tranh chính trị của các tầng lớp đồng bào nổ ra với nhiều hình thức. Thanh niên, học sinh các trường học kiến nghị đòi chính quyền Nguyễn Văn Thiệu không bắt học sinh gia nhập cái gọi là “Tổ quốc học đường”. Cơ sở thanh niên, học sinh rải truyền đơn, bươm bướm trên các đường phố Thị xã với nội dung “Đi lính là diệt mầm xanh của tuổi trẻ”. Song song với đấu tranh chính trị, quân sự để giành độc lập, tự do thì mặt trận văn hóa cũng là vũ khí mạnh mẽ, sắc bén. Đây cũng là nguyện vọng ấp ủ từ lâu của Ban Thanh niên - Học sinh, nó thôi thúc chúng tôi cho ra đời giai phẩm “Học đường mới” vào năm 1972, cùng thời điểm với “Sao trên phố” của Ban Tuyên huấn Thị xã.
Giáo sư Lê Phú Tiết - công tác ở Ban Trí vận Thị xã được chỉ định là chủ nhiệm kiêm chủ bút “Học đường mới”. Bút danh của anh là Lê Hồng Tân.
Trong lời nói đầu, chủ bút Lê Hồng Tân khẳng định: “Học đường mới” mong lấy hết sức mình làm viên gạch nhỏ, góp phần xây dựng nền văn hóa dân tộc. Cương quyết đẩy lùi tư tưởng phi dân tộc, hủ bại nhằm đồi trụy hóa lứa tuổi thanh thiếu niên. Quyết giương cao “Đoàn kết - vui khỏe - học tập”. Đây là ý chí, chủ đề xuyên suốt “Viết cho quê hương hòa bình” của Học đường mới. Lực lượng viết bài ngoài cán bộ Ban Thanh niên - Học sinh, còn có các đảng viên, đoàn viên cơ sở thanh niên, học sinh ở các trường học như Nguyễn Song Thanh, Dương Kim Thủy - PKB - TN - NTB - HS, Đặng Thị Thanh Tính, Việt Dân, Trần Trường Sơn - HTH, Nguyễn Hùng, Thanh Phương, Đông Vũ Cô Phàm, Thanh Hiền, Thương Thu Phương, Lê Quốc Trung, Bằng Hữu Lộc, Ngọc Hà, Thuận Khương, Vũ Long, Hồng Phượng - NMC, Nguyễn Thị Hoàng Thảo, Trần Hồng Chinh (Kiên Sa). Ngoài ra, còn có sự cộng tác của anh chị em ở ban ngành Thị xã.
Giai phẩm “Học đường mới” in giấy sáp, khổ 15x20cm. Về kỹ thuật in ấn và khắc gỗ do Nguyễn Văn Chăm (Ba Chăm) - cán bộ Ban Tuyên huấn đảm nhiệm. Đánh máy bài viết có anh Nhất Tâm. Hình ảnh trang bìa và minh họa trang trong được sự giúp đỡ của Nguyễn Tấn Liêm (Ha Ca) - cán bộ Khu Sài Gòn Gia Định, vốn là cựu học sinh Trường Mỹ thuật Gia Định (quê quán ấp 2, xã Phước Thạnh, Châu Thành). Mực in là tổng hợp chất liệu của khói đèn, dầu nhớt và dầu brillantine (loại dầu nam giới thường dùng để xức tóc). Theo lời Chăm kể, việc in ấn lúc ban đầu nhờ anh Năm Huệ là người của tỉnh được tăng cường về Thị xã hướng dẫn. Để có được giấy in cũng gian nan lắm. Vì thời điểm này, bọn địch kiểm soát rất gắt gao ở các cửa khẩu vành đai Thị xã. Chúng tôi không thể nào quên được sự giúp đỡ nhiệt tình của cô Tư Nương, cô Năm Nằm, Năm Lé, Lệ, Biết, Em và Nhãn. Không nề hà khó khăn nguy hiểm, bằng mọi cách, họ tiếp liệu rất có hiệu quả.
Trong bài thơ “Nữ sinh Việt Nam”, Hồng Phương đã viết: “Kiêu hùng thay tuổi trẻ Việt Nam/Hùng dũng kiên cường xông ra phía trước/Tóc xõa bờ vai mắt người gan thép/Bay phất phơ tà áo trinh nguyên/Cao tiếng thét đòi chính quyền thi hành hiệp định”.
Tình yêu quê hương thấm đẫm trong lòng để Lê Quốc Trung viết lên những cảm xúc của mình qua đoạn thơ “Niềm đau”: Hôm nay anh về quê mẹ/Bụm tay uống nước sông xưa/Nước sông hay dòng lệ mẹ/Vì đời chưa tạnh gió mưa/Hơn 20 năm lửa khói/Anh đi… người đi tiếp nối/Hỏa châu cháy đỏ đêm trường/Đất chưa cạn dòng máu đỏ/Đạn thì cày nát quê hương.
Trần Hồng Chinh (Thi vũ sông Hàm) với bài thơ “Tuổi trẻ niềm tin tất thắng”: Bao tiếng thét uất hờn vang thán oán/Muôn lớp người đã chán ghét chiến tranh/ Mong mỏi rằng Hiệp định chóng thi hành/Để sớm được sống trong tình hòa hợp/Anh chị em ơi, chặng đường đến đầy tự hào phấn khởi/Phải cùng nhau đoàn kết chặt hơn/Cùng nung gan phấn đấu chắc đôi chân/Sanh tử với kẻ thù không lùi bước/Phải cứng rắn đừng để người đầu độc/Nhớ rằng đường ta đi nào phải van xin/Giờ vinh quang ta đang rộn niềm tin/Anh chị hỡi! Vùng lên là tất thắng.
Nồng ấm, thiết tha những lời tự sự của em Nguyễn Minh Chiếm: “Đường hành quân thương những đêm trăng/Ngắm bóng đêm khi mặt trời vừa lặn/Ơi thương quá! Ta gọi trăng là nắng/Nắng bình minh làm sáng bước hành trình”.
Trong bài viết “Một lần trở lại”, Hà Thanh Hùng đã trải lòng mình lên từng câu chữ, em nuôi ước mơ được học hành, có công ăn việc làm để giúp mẹ nuôi đàn em ăn học. Nhưng “Quân sự hóa học đường” đã đẩy em vào quân trường, ra tác chiến đối diện tử thần lẫn đói khát. Nhớ về quê hương, về mẹ, Hùng đã viết: “Nhớ nhất những lần tôi cùng mẹ lặn lội về vườn nhặt từng trái cam, trái chuối đầy vết nám đen vì đạn bom, chất độc khai hoang. Mẹ tôi rướm lệ nói với tôi: “Ăn đi con để biết phận làm người”. Em nghĩ đến màu xanh một màu xanh hy vọng, màu xanh hòa bình ngọt ngào như nét sơn kẻ trên bảng gỗ cổng trường ngày nào em đã học. Thế là em đã quyết ra đi...”.
(Còn tiếp)