08/03/2024 - 13:56
 

 

Theo ghi nhận của ngành chức năng, từ đầu mùa khô năm 2023-2024 đến nay, xâm nhập mặn trên các sông chính trong tỉnh chủ yếu lên xuống theo triều. Độ mặn cao duy trì trong khoảng thời gian ngắn nên lượng nước ngọt dự trữ trong dân cơ bản đáp ứng được, chưa ghi nhận tình trạng thiếu nước ngọt phục vụ ăn uống.

Hạn hán, xâm nhập mặn đang diễn ra gay gắt. Ảnh: Thạch Thảo - Trọng Ân

Theo ông Nguyễn Văn Thơ (Ấp 1, xã Long Mỹ) cho biết: “Tình hình nước máy bị mặn nhưng vẫn còn sử dụng được cho tắm giặt. Cũng có thời điểm độ mặn giảm, nước máy tương đối ngọt lại. Nhà máy nước Tân Hào có thông tin cho bà con đến nhà máy lấy nước 3 lần/tuần, mỗi hộ được tối đa 60 lít nước ngọt/lần. Nhưng gia đình tôi lớn tuổi nên không có đến nhà máy để chở. Ở nhà có trữ nước mưa trong mái với 2 cái hồ nên không quá lo ngại thiếu nước ngọt xài”.

Nước máy ở khu vực xã Long Mỹ, huyện Giồng Trôm đã ảnh hưởng mặn, người dân chỉ dùng cho giặt giũ. Ảnh: Thanh Đồng

Đối với gia đình bà Nguyễn Thị Út (Ấp 1, xã Long Mỹ, huyện Giồng Trôm), hiện do nước máy đã bị ảnh hưởng mặn nên gia đình bà chỉ sử dụng cho tắm giặt, còn ăn uống thì sử dụng nước mưa. Bà Nguyễn Thị Út cho biết: “Gia đình tôi có trang bị 6 cái lơn trữ nước mưa, hiện đang sử dụng dần. Hồi đầu mùa tranh thủ có khi nước ngọt, tôi có lấy nước trữ lại. Giờ phải sử dụng nước tiết kiệm thôi. Chừng xài hết nước trữ thì mới tính đến việc đổi nước cây, nước thùng”.

Tại Ba Tri, từ trước Tết Nguyên đán Giáp Thìn 2024, một số khu vực xã An Ngãi Tây, Tân Hưng, An Hiệp đã bị nhiễm mặn. Là huyện thuần nông, trồng trọt và chăn nuôi, trong đó chăn nuôi bò với số lượng nhiều nhất tỉnh, các hộ rất quan ngại nguồn nước ngọt cho bò uống trong thời gian tới.

Ông Võ Hữu Tài kiểm tra nguồn nước trước khi sử dụng. Ảnh: Phan Hân

Ông Võ Hữu Tài (ấp An Hòa, xã An Ngãi Tây, huyện Ba Tri) cho hay: “Nước nhiễm mặn hơn 2 tháng nay, gia đình tôi dùng nước máy để phục vụ tắm giặt, sinh hoạt hàng ngày và thức uống cho bò. Nước uống, nấu ăn thì dùng nước mưa đã trữ từ mùa mưa năm 2023. Hiện tại, nước ngọt chưa quá áp lực với gia đình tôi".

Bà Nguyễn Thị Thanh Thủy (ấp Tân Khai, xã Tân Hưng, huyện Ba Tri) lo lắng nguồn nước cho đàn bò trong thời gian tới. Ảnh: Phan Hân

Bà Nguyễn Thị Thanh Thủy, ấp Tân Khai, xã Tân Hưng, huyện Ba Tri cho biết: “Độ mặn hiện tại, bò vẫn uống được, chỉ lo độ mặn tăng cao nguồn nước cho bò sẽ khó khăn”.

Chủ tịch UBND xã Tân Hưng Nguyễn Văn Bình cho biết: Toàn xã có gần 800/1.750 hộ sử dụng nước máy bị nhiễm mặn với độ mặn ghi nhận 2,7 (số liệu đo ngày 7-3-2024 - PV). Do mạng lưới nhà máy nước chưa bao phủ toàn xã, số hộ dân còn lại không có nước máy phải sử dụng nước bơm từ sông, kênh, rạch qua xử lý Clo.

Dự án xây dựng hồ chứa nước ngọt Lạc Địa, xã Phú Lễ, huyện Ba Tri với dung tích 2,3 triệu m3 đang được triển khai thi công phục vụ cấp nước sinh hoạt và sản xuất. Ảnh: T. Thảo

Theo thông tin từ Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Ba Tri, hệ thống công trình cống trên địa bàn huyện chưa khép kín, tình hình xâm nhập mặn dự báo vẫn còn diễn biến trong năm 2024. Phía sông Hương Điểm, huyện Giồng Trôm còn khoảng 1,5 ngàn mét phía Ba Tri chưa khép kín. Ngoài ra, khu vực cồn Nhàn, cồn Ngoài, ấp Thạnh Hải, xã Bảo Thuận và cồn Đất ấp An Bình, xã An Hiệp thiếu nước ngọt sinh hoạt trong thời gian nắng hạn kéo dài. Hiện chính quyền huyện Ba Tri chủ động phối hợp với Công ty TNHH MTV Khai thác công trình thủy lợi Bến Tre vận hành hệ thống công trình, điều tiết nước tại hệ thống công trình thủy lợi huyện, liên huyện Ba Tri - Giồng Trôm, Ba Tri - Bình Đại để đảm bảo nguồn nước phục vụ người dân.

Mặc dù nước đã nhiễm mặn nhưng hộ ông Ngô Văn Dũng, xã Tân Trung vẫn bơm vào các ống hồ để sử dụng vì không còn cách nào khác. Ảnh: T. Thảo

Tại huyện Mỏ Cày Nam, nhiều vùng chưa có đê bao khép kín, vào mùa khô, mặn xâm nhập sâu khiến người dân và vật nuôi luôn đối diện với tình trạng khan hiếm nước ngọt. Ông Ngô Văn Dũng, ngụ ấp Tân Thành Thượng, xã Tân Trung, huyện Mỏ Cày Nam cho biết: “Nhà tôi nằm ngoài đê bao Vàm Cái Quao, nơi đây có khoảng 200 hộ dân sinh sống trong một khu vực hơn 100ha bị nhiễm mặn vào mùa khô. Ấp Tân Thành Thượng, nơi tôi ở lại chưa có nước máy, người dân vẫn phải bơm nước sông lên trữ trong các ống xi-măng để xài. Nước sông hiện mặn hơn 6‰, có ngày lên đến 7‰ nhưng chúng tôi vẫn phải sử dụng, vợ con đều tắm giặt bằng nước này, mình mẩy cũng rích lắm, ngứa ngáy lắm mà phải chịu chứ biết làm sao. Nước uống của gia đình thì tôi mua nước thùng, còn đàn heo thì tôi cho uống nước giếng, nước giếng bị phèn nhưng không bị mặn, còn cây trồng thì không có nước tưới... Nói chung là mùa khô, người dân ấp Tân Thành Thượng gặp khó khăn về nguồn nước”.

Ngành chức năng thường xuyên đo độ mặn để thông tin kịp thời cho người dân lấy nước ngọt phục vụ chăm sóc cây trồng, vật nuôi. Ảnh: Trần Quốc

Công tác đo, kiểm tra, dự báo độ mặn được ngành chức năng và địa phương thực hiện chủ động, thường xuyên để thông tin cho người dân biết và có kế hoạch lấy nước phù hợp với diễn biến xâm nhập mặn. Từ năm 2022, Đài Khí tượng thủy văn tỉnh Bến Tre đã xây dựng phương án dự báo xâm nhập mặn bằng mô hình MIKE 11, MIKE 21 và thể hiện bản đồ trên nền ArcGis cho độ tin cậy ổn định áp dụng vào nghiệp vụ dự báo. Phương án dự báo xâm nhập mặn áp dụng công nghệ khoa học tiên tiến này giúp cho các dự báo viên chủ động trong phương án dự báo. Kết hợp với công cụ ArcGis, phương án dự báo đã cho kết quả dự báo với bản đồ trực quan và dễ hiểu hơn so với bảng biểu thông thường, đáp ứng với quy định các mẫu bản tin dự báo của ngành.

Phó chủ tịch UBND xã Hưng Khánh Trung B (Chợ Lách) Trương Minh Giảng kiểm tra tại đập Chợ Thanh Trung. Ảnh: Thanh Đồng

Tại các địa phương, công tác dự báo, cảnh báo, hướng dẫn người dân ứng phó với hạn mặn được thực hiện thường xuyên, chặt chẽ. Phó chủ tịch UBND xã Hưng Khánh Trung B (Chợ Lách) Trương Minh Giảng cho biết: “Toàn xã có 8 điểm đo mặn, trong đó 1 điểm của xã và 7 điểm của ấp. Công tác đo, kiểm tra độ mặn được thực hiện hàng ngày và thông tin cảnh báo, dự báo tình hình diễn biến độ mặn cho người dân thông qua các nhóm Zalo, đài truyền thanh, tổ thông tin các ấp để người dân nắm kịp thời”.

Nông dân trữ nước ngọt tưới tiêu vườn cây giống tại huyện Chợ Lách. Ảnh: T. Thảo

Thông tin từ Đài Khí tượng thủy văn tỉnh, trong tháng 3-2024, dự báo xuất hiện 2 đợt xâm nhập mặn: đợt 1 từ ngày 5 đến 13-3-2024 và đợt 2 từ ngày 23 đến 31-3-2024. Trong tháng 4-2024, dự báo xuất hiện 2 đợt xâm nhập mặn: đợt 1 từ ngày 5 đến 12-4-2024 và đợt 2 từ ngày 25-4 đến 1-5-2024. Trong tháng 5-2024, dự báo xuất hiện 2 đợt xâm nhập mặn: đợt 1 từ ngày 6 đến 12-5-2024 và đợt 2 từ ngày 19 đến 25-5-2024. Trong tháng 6-2024, dự báo xuất hiện 2 đợt xâm nhập mặn: đợt 1 từ ngày 31-5 đến 6-6-2024 và đợt 2 từ ngày 13 đến 20-6-2024.

Trong thời gian qua, tỉnh Bến Tre đã được sự quan tâm, hỗ trợ của Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương đầu tư xây dựng nhiều dự án, công trình thủy lợi và cấp nước quan trọng góp phần nâng cao năng lực tưới tiêu cho cây trồng, phục vụ nuôi thủy sản và cung cấp nước sinh hoạt cho dân cư nông thôn.

Công trình cống Giồng Luông, Sa Kê, An Hóa đưa vào sử dụng, góp phần phục vụ sản xuất và sinh hoạt của người dân. Ảnh: Trọng Ân - Phan Hân

Một số công trình, dự án đầu tư, xây dựng có mục tiêu phòng chống hạn hán, xâm nhập mặn trên địa bàn tỉnh đã được nghiệm thu, đưa vào sử dụng. Giai đoạn từ năm 2020 đến nay, tỉnh Bến Tre đã được Trung ương hỗ trợ đầu tư, đưa vào sử dụng 64 công trình cống gồm: Các dự án đầu tư xây dựng công trình ngăn mặn lưu vực cống Thủ Cửu, huyện Giồng Trôm; dự án hệ thống thủy lợi Bắc Bến Tre giai đoạn 1; dự án hệ thống cống kiểm soát mặn các huyện Ba Tri, Mỏ Cày Nam và Chợ Lách; dự án hệ thống thủy lợi Nam Bến Tre và dự án quản lý nước Bến Tre (JICA3) đã hoàn thành đưa vào sử dụng các cống Tân Phú, Bến Rớ, huyện Châu Thành.

Cống Tân Phú là một trong những công trình trọng điểm, chiến lược giúp trữ nước ngọt cho sinh hoạt và sản xuất. Ảnh: T. Ân - T. Thảo

Các dự án, công trình thủy lợi sau khi hoàn thành đưa vào sử dụng đã phát huy hiệu quả tốt, cơ bản kiểm soát được nguồn nước ở 2 tiểu vùng Bắc và Nam Bến Tre. Tuy nhiên, hiện tại hệ thống công trình thủy lợi của tỉnh vẫn chưa được khép kín như: Hệ thống thủy lợi Bắc và Nam Bến Tre đầu tư còn dở dang và Dự án quản lý nước (JICA3) đang trong giai đoạn triển khai… Do đó, tỉnh chưa thể chủ động kiểm soát hoàn toàn được nguồn nước ngọt trong tình huống xâm nhập mặn diễn biến gay gắt.

Về giải pháp đảm bảo cấp nước sinh hoạt trong điều kiện mặn gay gắt, ngành nông nghiệp tỉnh đã chuẩn bị phương án cấp nước khu vực nông thôn, thực hiện chở nước thô bằng sà lan về một số nhà máy có độ mặn nước nguồn tại chỗ tăng cao. Đồng thời, vận hành hệ thống RO cấp nước tập trung để đáp ứng nhu cầu nước ăn uống cho người dân.

Nhà máy nước Hữu Định (Châu Thành) cấp nước ngọt qua hệ thống RO cho người dân. Ảnh: Phan Hân

Đối với hoạt động cấp nước khu vực đô thị, Công ty cổ phần Cấp thoát nước Bến Tre đã có phương án đảm bảo vận hành Trạm bơm nước thô Cái Cỏ đưa về Nhà máy nước Sơn Đông để tăng lưu lượng phục vụ; phương án vận chuyển nước để cung cấp cho các bệnh viện, trường học, nhà hàng, khách sạn, các khu công nghiệp và vận hành các điểm cấp nước tập trung đã xây dựng để cung cấp cho người dân.

Tổng giám đốc Công ty cổ phần Cấp thoát nước Bến Tre Trần Thanh Bình cho biết: Công ty thường xuyên theo dõi chặt chẽ diễn biến mặn qua 5 trạm quan trắc, theo dõi bản tin của ngành thủy văn và kết hợp với Công ty TNHH MTV Khai thác công trình thủy lợi Bến Tre vận hành hệ thống các đập ngăn mặn. Đến thời điểm hiện tại, tất cả các nhà máy nước của công ty cung cấp nước đến khách hàng có độ mặn không vượt tiêu chuẩn cho phép, đều nằm trong giới hạn cho phép về độ mặn theo quy chuẩn kỹ thuật địa phương QCĐP 01:2022/BTr (độ mặn < 300mg/I C1).

Khánh thành Nhà máy nước sạch Darco Ba Lai tọa lạc tại ấp Tân Quý, xã Tân Mỹ, huyện Ba Tri. Ảnh: Trần Quốc

Nhà máy nước An Hiệp nơi cung cấp nước ngọt cho sinh hoạt cư dân TP. Bến Tre. Ảnh: Thạch Thảo

Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn tỉnh hiện quản lý 32 nhà máy nước, trong đó, có 27 nhà máy nước vận hành cấp nước và 5 nhà máy nước đã thực hiện hòa mạng để đảm bảo hiệu quả cấp nước cho người dân sử dụng. Hiện số hộ dân sử dụng nước từ các nhà máy nước là 98 ngàn hộ. Trong đó, có khoảng 13 ngàn hộ chịu ảnh hưởng mặn có độ mặn trên 1‰, còn lại là dưới 1‰. 15 ngàn hộ độ mặn thấp hơn 0,5‰. Từ đầu mùa khô đến nay, trung tâm vận hành các mạng lưới cấp nước đã kết nối, chuyển nước ngọt từ các nhà máy nước có nước ngọt/độ mặn thấp đến mạng lưới cấp nước của nhà máy nước nơi có độ mặn cao.

Nước qua hệ thống lọc RO tại Nhà máy nước Phú Khánh, xã Phú Khánh, huyện Thạnh Phú có thể uống được.

Phó giám đốc Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn tỉnh Nguyễn Xuân Hòa cho biết: “Trung tâm sẽ tiếp tục triển khai các giải pháp cấp nước để đảm bảo nguồn nước sinh hoạt thiết yếu cho người dân sử dụng. Ngoài ra, trung tâm còn quản lý 29 hệ thống RO tại các nhà máy nước, công suất thấp nhất 2m3/giờ và cao nhất 10m3/giờ sẵn sàng hoạt động để người dân có nhu cầu đến lấy nước phục vụ sinh hoạt”.

Chủ tịch UBND tỉnh Trần Ngọc Tam và Phó chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Minh Cảnh khảo sát vị trí đắp đập tạm Bến Rớ tạo túi nước ngọt cho trạm bơm Cái Cỏ.  Ảnh: Trần Quốc

Hiện UBND tỉnh đã có chủ trương triển khai đắp đập tạm Bến Rớ, tạo túi nước ngọt cho trạm bơm Cái Cỏ (công suất 47 ngàn m3/ngày đêm); bơm nước thô ngọt cho Nhà máy nướcAn Hiệp, Sơn Đông, phục vụ cho 2 Khu công nghiệp An Hiệp và Giao Long, TP. Bến Tre, 2 huyện Mỏ Cày Bắc, Mỏ Cày Nam. Triển khai lắp đặt 2 thuyền bơm tại đập tạm Thành Triệu để bơm nước ngọt khi triều thấp vào lưu vực trữ nước Tam Dương và sông Mã để đảm bảo nước ngọt cung cấp cho Nhà máy nước Sơn Đông.

Đập tạm Thành Triệu, huyện Châu Thành là một trong nhiều con đập tạm trên địa bàn tỉnh được xây dựng nhanh chóng nhằm giữ nước cho tưới tiêu và sinh hoạt vào mùa khô tại tỉnh. Ảnh: T.Thảo

Huyện Châu Thành và Công ty TNHH MTV Khai thác công trình thủy lợi tỉnh vận hành các cống dọc sông Hàm Luông và sông Tiền để tích trữ nước ngọt vào nội đồng, các khu vực trữ nước hợp lý, đảm bảo nước không bị nhiễm mặn. Đối với khu vực Giồng Trôm, tiếp tục duy trì mua nước qua đồng hồ tổng của Nhà máy nước Bình Hòa đã xử lý qua hệ thống RO bơm nước ra mạng, với công suất 8 ngàn m3/ngày đêm phục vụ cho người dân và doanh nghiệp thuộc vùng phục vụ của công ty.

Để thực hiện có hiệu quả công tác phòng chống, ứng phó hạn mặn trong thời gian tới, bên cạnh sự nỗ lực của chính quyền địa phương các cấp và các ngành chức năng thì cần có sự chủ động từ người dân, chia sẻ khó khăn chung trong điều kiện nguồn lực của tỉnh còn hạn chế; tích cực, khẩn trương vào cuộc cùng với chính quyền địa phương các cấp thực hiện các giải pháp phòng chống, ứng phó xâm nhập mặn mùa khô năm 2023-2024 và những năm tiếp theo theo phương châm “4 tại chỗ, 3 sẵn sàng”.

Người dân nạo vét kênh nội đồng để trữ nước ngọt phục vụ cho sản xuất. Ảnh: Trọng Ân

Thông thường vào đầu mùa khô, ghe chở các dụng cụ chứa nước vận chuyển đến mọi ngõ ngách để bán cho người dân. Ảnh: Thạch Thảo

Địa bàn huyện Mỏ Cày Nam với đặc thù 6 tháng nước mặn, 6 tháng nước ngọt, nơi có đàn heo lớn nhất tỉnh, nước ngọt vào mùa khô là vô cùng quý giá với người và vật. Vài năm trở lại đây mặn xâm nhập sâu và gay gắt hơn, song song đó, địa bàn Mỏ Cày Nam còn nhiều vùng chịu ảnh hưởng mặn xâm nhập từ Vàm Cái Quao, Vàm Thom và Vàm Nước Trong, do đó người dân đã phải tích lũy kinh nghiệm ứng phó. Nhiều nhóm zalo thông tin về hạn mặn được lập nên, phạm vi trong ấp, có người tham gia cả nhóm Zalo phòng chống thiên tai của tỉnh để cập nhật tình hình xâm nhập mặn, nhằm kịp thời chia sẻ thông tin với bà con chòm xóm mình. Ông Nguyễn Văn Răng, ngụ ấp Tân Lễ 2, xã Tân Trung, huyện Mỏ Cày Nam chia sẻ: “Tôi biết được thông tin dự báo mùa mặn 2023 - 2024, nên đã dự trữ nước trong mương vườn từ lâu rồi. Nhờ đặc thù của miệt vườn Mỏ Cày Nam là kênh rạch chằng chịt, chính lợi thế này giúp tôi tận dụng nơi có sẵn trong vườn để trữ nước ngọt. Tôi có 10 cái mương trong vườn dừa, mỗi cái mương trữ được 180m3, tôi bao bờ lại hết vừa để chống ngập, vừa trữ ngọt tưới tiêu và cho đàn gia súc heo bò uống, chúng tôi xài nước ngọt với tâm thế tiết kiệm lắm”.

Ông Nguyễn Văn Hồng Vân, Ấp 4, xã Bình Hòa, huyện Giồng Trôm chủ động bảo vệ vườn cây ăn trái. Ảnh: Bảo Duy

Tại huyện Giồng Trôm, để bảo vệ vườn cây ăn trái, các hộ dân đã nạo vét kênh mương trữ nước, đắp đập quanh vườn trữ nước ngọt, tăng cường bón phân hữu cơ, ủ gốc, tỉa cành, phun thuốc trừ sâu bệnh... Ông Nguyễn Văn Hồng Vân, Ấp 4, xã Bình Hòa, huyện Giồng Trôm cho biết: “Để bảo vệ cho vườn bưởi da xanh, tôi đã chi hơn 60 triệu đồng để đào rộng các kênh mương và đắp đập ngăn mặn; đồng thời kết hợp với việc ủ gốc để giữ ẩm cho cây.Hạn mặn là một thách thức lớn đối với người trồng cây ăn trái ở địa phương. Tôi đã đầu tư đào kênh, đắp đập, ủ gốc hy vọng với những biện pháp này, cây vườn nhà sẽ không bị ảnh hưởng nhiều bởi mặn”.

Anh Quách Duy Thịnh - chủ Homestay Maison du Pays de Bến Tre chuẩn bị lắp đặt thêm các thùng, hồ chứa nước ngọt dùng cho nấu ăn để phục vụ du khách trong thời điểm xâm nhập mặn. Ảnh: CTV

Không chỉ đối với các hộ làm vườn, đối với hộ kinh doanh dịch vụ như du lịch, người dân cũng có các giải pháp chủ động ứng phó với hạn mặn. Anh Quách Duy Thịnh, chủ homestay Maison du Pays de Bến Tre, xã Thạnh Phú Đông, huyện Giồng Trôm cho biết: “Năm nay, homestay  đầu tư lắp đặt 2 hồ nước mới, mỗi hồ 3m3 để trữ nước sinh hoạt. Chúng tôi cũng có thông tin với du khách biết về tình hình xâm nhập mặn đang diễn ra gay gắt và họ thông cảm với mình. Chúng tôi cố gắng cung cấp dịch vụ tốt nhất trong khả năng của mình, nếu khách yêu cầu mua nước lọc đóng chai để sử dụng thì chúng tôi sẽ đáp ứng. Trong thời gian tới, gia đình có tính đến phương án đổi nước ngọt với giá 130 ngàn đồng/m3 trong tình hình xâm nhập mặn đỉnh điểm”.

Chủ tịch UBND xã Tân Hưng Nguyễn Văn Bình cho biết: ”Qua các đợt hạn mặn và sự vào cuộc tích cực tuyên truyền, vận động của các cơ quan, ban ngành, đoàn thể xã, hộ dân trong xã đã được hướng dẫn biện pháp ứng phó hạn mặn bằng cách ngăn đê bao cục bộ trong mương vườn”.

Vợ ông Võ Hồ Măng (ấp Hưng Nhơn, xã Tân Hưng, huyện Ba Tri) sử dụng nước mưa để nấu ăn. Ảnh: Phan Hân

Địa bàn đê bao chưa khép kín, xác định hạn mặn sẽ xâm nhập, ông Võ Hồ Măng (ấp Hưng Nhơn, xã Tân Hưng, huyện Ba Tri) đã chủ động đào ao có diện tích 1 ngàn m2, trữ gần 1,5 ngàn m3 nước ngọt. Ông Măng thường xuyên theo dõi, cập nhật tình hình hạn mặn để nhét bọng nhằm bảo vệ nước ngọt trong ao.

Với mô hình túi và hỗ trữ nước gia đình chị Nguyễn Thị Bé Phúc (ấp Xẻo Sâu, xã Tân Hưng, huyện Ba Tri) đảm bảo nước ngọt trong mùa hạn mặn. Ảnh: Phan Hân

Hộ chị Nguyễn Thị Bé Phúc (ấp Xẻo Sâu, xã Tân Hưng, huyện Ba Tri) chưa có nguồn nước máy sử dụng do mạng lưới nước chưa bao phủ. Tuy nhiên, từ nhiều năm nay, nước sinh hoạt hàng ngày chị lấy từ sông, rạch xử lý sử dụng để phục vụ rửa chén, giặt đồ. Chị Phúc dự trữ gần 30m3 nước để dùng trong việc nấu rượu.

Anh Nguyễn Văn Hưng kiểm tra độ mặn trong ao trữ nước. Ảnh: Thanh Đồng

Ghi nhận tại huyện Chợ Lách, vùng cây giống, hoa kiểng trọng điểm của tỉnh. Để ứng phó với xâm nhập mặn, các cấp chính quyền và nhân dân đã có sự chủ động từ đầu mùa khô. Gia đình anh Nguyễn Văn Hưng, nông dân ấp Phú Hưng, xã Hưng Khánh Trung B (Chợ Lách) chuyên trồng mai và sản xuất cây giống. Từ đợt xâm nhập mặn 2016 đến nay, anh Hưng đầu tư, đào 2 ao trải bạt trữ trên dưới 500mnước để tưới cho vườn mai 5.000m2. Anh Nguyễn Văn Hưng cho biết: “Ngay từ cuối tháng 9, tháng 10, tôi đã chủ động trữ nước để phòng mặn xâm nhập sớm; thường xuyên cập nhật độ mặn từ nhóm thông tin tình hình thiên tai của huyện, xã, đồng thời mua thiết bị đo để kiểm tra hàng ngày. Theo tôi thấy cùng với các giải pháp của cơ quan chính quyền, nếu người dân chủ động trữ nước, ứng phó với mặn đã được khuyến cáo thì sẽ giảm thiểu rất nhiều ảnh hưởng, tác động của thiên tai”.

Ảnh: Minh Đại

--------------------------------

Thực hiện
Nội dung: Trần Quốc - Thanh Đồng - Thạch Thảo - Phan Hân - Bảo Duy
Thiết kế: Mỹ Hạnh