Khi rời cống đập Ba Lai, lẩn quẩn theo mấy cái ngã ba tráng xi-măng, tôi bị lạc đường. Thấy tôi lựng bựng không biết rẽ hướng nào, thì một bé trai choàng khăn quàng đỏ chạy xe đạp con, dừng lại lễ phép hỏi:
- Bộ bác kiếm nhà ai hả bác?
Tôi hỏi cháu đường nào đến mộ cụ Đồ Chiểu. Cháu bé vừa bước xuống xe, vừa nói: “Bác để con chỉ cho”. Đoạn cháu mở cặp ra lấy một miếng giấy rời, kê trên yên xe vẽ… “bản đồ”. Vừa vẽ, cháu vừa nói: “Bác đi tới đây nè, nhớ quanh xuống đây, quẹo ở chỗ này, chạy một hồi, rồi bác hỏi mấy người bán tiệm đường nào đi An Đức để tới mộ ông Đồ Chiểu, nghen bác”.
Tôi nói: “Thôi, cháu chỉ cho bác cỡ vậy được rồi, khỏi vẽ tốn giấy lắm…” Cháu nói: “Rủi bác quên, bác đi lạc đường nữa…”.
Đưa cho tôi tấm “bản đồ” còn ướt mực tím, cháu nhìn tôi hỏi: “Bộ bác về Bến Tre mua tôm sú hả. Ở Ba Tri, Bình Đại, Thạnh Phú người ta nuôi tôm sú dữ lắm bác ơi”.
Tôi nói: “Bác chỉ đi về nguồn, viếng mộ Cụ Đồ thôi cháu à!”.
Cháu bé lại hỏi: “Chắc bác làm thầy giáo quá, nên mới về nguồn”.
Tôi nắn nhẹ vai cháu: “Cháu tên gì, học trường nào? Chắc học giỏi lắm phải hôn?”.
Cháu bé vừa leo lên xe, vừa nói: “Cháu hổng nói đâu. Cháu học dở ẹc hà bác ơi. Thôi cháu đi để sợ trễ giờ. Bác cứ đi theo đường cháu chỉ đó nghen bác”.
Cử chỉ đẹp, ngoan hiền của cháu học trò nhỏ trường làng bên dòng sông Ba Lai cứ vương vấn mãi trong tôi từ chuyến về nguồn đầy kỷ niệm, cho đến hôm nay.
Về An Đức (Ba Tri) trong giây phút đốt nhang tưởng niệm Cụ Đồ, đi vòng quanh khu tưởng niệm Cụ, tôi bỗng bùi ngùi tưởng nhớ tới Trường Thiên, người bạn đồng nghiệp bình dị, hiền hòa, từng chia ngọt sẻ bùi, sống kham khổ với nhau qua những năm tháng chiến tranh. Tưởng nhớ anh, tôi cảm thấy như hương hồn anh đang lẩn khuất đâu đây. Hình ảnh của anh khó phai mờ trong ký ức của tôi cũng như anh chị em Báo Chiến Thắng Bến Tre thời ấy.
Chiến dịch Đông Xuân 1967, vào một đêm tối trời, tôi có giang theo ghe chiếu bóng lưu động của các anh Sáu Nguyện, Bảy Phát, Hai Nguyên… đi phục vụ vùng Cù lao Minh trở về cứ, len lỏi theo con rạch nhỏ từ Phước Long, Thạnh Phú Đông về Tân Hào (Giồng Trôm). Thời kỳ này, mức độ ác liệt của chiến tranh trên chiến trường Bến Tre càng tăng cao, dưới sông lẫn trên bộ. Ban đêm, máy bay trực thăng soi đèn bắn phá dọc theo các tuyến sông, kinh, rạch. Máy bay Đa-kô-ta vừa bỏ pháo sáng vừa bắn như…“trâu đái” (từ do nhân dân đặt - NV) sáng đêm theo từng mục tiêu, các cỡ pháo, cối tầm xa, tầm gần từ các cứ điểm của giặc nả xuống chỗ này, chỗ nọ bất cứ lúc nào khi máy bay chúng hồ nghi hoặc do thám chỉ điểm. Ghe chúng tôi cứ tấp qua tấp lại, bọc vịnh ôm voi men theo từng khóm lác, từng cụm dừa nước để đi. Trong đêm đen, tôi bỗng chú ý tới một người mặc bà ba đen ngồi trước mũi ghe, cầm cây dầm chỏi qua, chỏi lại theo lệnh của anh Sáu Nguyện cầm lái máy đuôi tôm bốn ngựa.
- Chỏi mạnh qua coi mậy Thiên.
- Chết tổ, mắc cạn rồi. Ráng chống thiệt mạnh, trườn tới Thiên ơi.
- Trực thăng bay tới, nó rọi đèn kìa, tấp lẹ vô coi Thiên.
- Đừng cho quợn nước máy bay nó thấy nghen Thiên.
Cả bọn ngồi trong ghe, ai cũng rí rố đủ thứ chuyện từ Liên Xô, Cu-Ba, Trung Quốc… giờ ra sao; Quảng Trị, Thừa Thiên, ổ ong vò vẽ xã chiến đấu ở Thạnh Phú Đông, Long Mỹ, Phước Long… Riêng người bơi mũi vẫn yên lặng không nói một lời, chỉ lui cui làm theo người cầm lái.
Về tới căn cứ các anh, chúng tôi chia tay trong đêm tối, song vẫn không thấy mặt người bơi mũi ghe có tên Trường Thiên.
Sau chuyến công tác khá lâu, tôi về cơ quan nộp bài và nhận chỉ đạo mới, bỗng gặp lại người bơi mũi hôm trước. Anh đã là lính của Tiểu ban Thông tin - Báo chí tỉnh Bến Tre.
Xưa nay, người ta hay nói câu: “Điếc hay ngóng, ngọng hay nói”. Nhưng với Trường Thiên thì không phải vậy. Do lưỡi anh lớn, nên phát âm khó nghe. Tính anh hiền, hòa nhã, khiêm tốn, ít nói, siêng năng, giản dị. Trông dáng vóc, không ai tin anh là người Sài Gòn, bởi anh lùn, lù khù, tóc luôn hớt cua, chuyên mặc bà ba đen, quần lửng thửng khỏi mắt cá, chân mang dép nhựt, sống hòa đồng với tập thể, thích lao động. Hàng ngày, sau giờ làm việc, Trường Thiên lặn lội tát mương, bắt cá bống sao theo các bụi ô rô, lá dừa nước về kho, nấu canh với rau tập tàng… Bởi tính khiêm tốn, ít khi nói về mình, nên cũng nhiều người không biết anh có trình độ học lực tới cử nhơn bốn, có võ ri-đô áo nâu, từng làm ký giả kịch trường mang bút danh Phạm Trường Thiên cho các báo, tạp chí Sài Gòn. Anh thông thạo ngoại ngữ Pháp, Anh, Trung Quốc, Nhật, giỏi cả môn Sử ký, Địa lý trong nước và thế giới. Nên cơ quan giao anh phần theo dõi điểm thời sự trong nước và thế giới là đúng “gu” của anh.
Có một chuyện mà tôi không bao giờ quên qua một chuyến đi chung với anh. Giữa lúc chiến trường Bến Tre đang ác liệt, ở khắp nơi trong tỉnh, giặc bị ta tấn công tơi bời. Chúng cũng điên cuồng đánh trả ác liệt bằng mọi thứ. Bỗng nhiên có ba tay phóng viên Thông tấn người Nhật vô tư vô vùng giải phóng Giồng Trôm, bị du kích ta bắt hết. Một đàng không biết tiếng Nhật, một phía mù tịt tiếng Việt Nam. Hai bên nói với nhau bằng điệu bộ như kịch câm, ăn trớt. Du kích thì một mực nghi họ là gián điệp, nên tịch thu hết ráo máy ghi âm, máy chụp hình, phim ảnh, cả tư trang. Họ quỳ xuống van xin vì sợ mất mát, hư hỏng, sợ bị giết chết… Giữa lúc đương căng, thì anh Lê Chí Nhân - lãnh đạo Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Bến Tre cử ngay Trường Thiên và tôi cấp tốc đến tiếp họ, không được chậm trễ. Khi gặp gỡ, tiếp xúc vài câu, cả ba chồm tới ôm anh mừng khóc. Coi anh như một vị cứu tinh, mặc dù họ biết “Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam luôn coi trọng nhân đạo, bộ đội, du kích Việt cộng không bao giờ giết chóc sai lầm như quân đội Hoa Kỳ và Sài Gòn…”. Họ viết ra giấy như vậy để anh đọc. Sau đó họ nhận lại đầy đủ máy móc, tư trang và được đưa ra khỏi vùng giải phóng.
Con đường đến với cách mạng của Trường Thiên cũng không giống ai. Một hôm tôi hỏi anh:
- Anh ở Sài Gòn mà sao không theo gánh Y tư (Y4), rồi vô chiến khu luôn, lại lội tuốt xuống Bến Tre chi cho gặp nạn vậy?
Anh cười hồn nhiên:
- Mình đã biết ở đâu cũng có cách mạng tại chỗ, nhưng mình lại muốn lựa chỗ nào để xuất phát mới có kỷ niệm cuộc đời vậy mà.
Tôi hỏi tiếp:
- Vậy chọn Bến Tre làm điểm xuất phát đi làm cách mạng của anh là kỷ niệm gì? Anh tâm sự. Có lẽ đây là lần đầu tiên anh nói với tôi, vì tính anh không muốn kể chuyện về mình.
- Vì Bến Tre là quê hương Đồng Khởi, là xứ sở của những danh nhân như: Võ Trường Toản, Đồ Chiểu, Phan Thanh Giản, Trò Ơn… mà tôi đã hâm mộ ngay từ còn ở ghế nhà trường, nên tôi chọn đây là nơi đến với cách mạng vậy.
Ngày ra đi, anh lặng lẽ rời Sài Gòn, rời nhà sách Khai Trí của anh, lên xe đò thẳng xuống Ba Tri, viếng mộ Cụ Đồ. Ý của anh là để nhìn tường tận nơi an nghỉ của một đại thi hào của dân tộc và sau cùng là gặp người của cách mạng. Anh đã lọt vào ánh mắt theo dõi của người dân, của công an và du kích nơi đây. Cuối cùng là anh bị du kích địa phương bắt giữ.
Trong mấy lần điều tra, người ta chỉ một mực nghe anh trả lời bằng giọng ngọng nghịu: “Tôi là dân làm ăn ở Sài Gòn đi viếng mộ Đồ Chiểu cho biết”. Thấy trên tay anh có đeo chiếc đồng hồ lạ (hiệu Ô-mê-ga), anh em du kích và công an địa phương cứ tưởng đó là cái… điện đài của do thám, nên giữ lại coi như tang vật rồi ráp vặn, tháo sao đó làm hư luôn. Mãi sau này anh vẫn không đeo đồng hồ nữa vì anh coi đó là ấn tượng buồn.
Sau đó, anh bị giải về trại giam Hồng Kỳ ở rừng Thạnh Phú - một trại giam đặc biệt dành riêng cho các loại tội phạm có nhiều nợ máu với nhân dân. Ai vô cửa ải này coi như… tới số.
Tới nước này, Trường Thiên liền khai thiệt mình là một trí thức, có người trong gia đình là một cán bộ cấp cao trong Trung ương Đảng đang làm việc tại Hà Nội. Bản thân anh muốn tự mình đến với cách mạng mà không dựa vào thân thế cậy nhờ…
Sau khi thẩm tra chính xác lời khai thật của… “phạm nhân”, anh được tha. Trước khi rời nơi “thoát tử”, anh được Ban Quản lý trại giam đãi bữa cơm ngon để chia tay.
Về công tác tại Tiểu ban Thông tin - Báo chí tỉnh Bến Tre một thời gian, anh được chuyển về Ban Chỉ huy Quân sự Tỉnh Đội Bến Tre, được coi như… “cục cưng” của bộ phận tham mưu tác chiến, “gạo cội” của Quân báo tỉnh nhà.
Năm 1973, tôi cùng anh được phân công về làm việc tại Ban Liên hiệp bốn bên hội nghị Pa-ri về Việt Nam, thuộc Khu vực 6 Mỹ Tho. Tôi làm nhà báo “trá hình” trong vai thơ ký đánh máy và chiếu phim. Riêng anh có vai trò đặc biệt là phải theo sát chỉ huy để nghe thông dịch viên nước ngoài, để dịch qua các cuộc tiếp xúc giữa mọi thành viên trong đoàn với người nước ngoài, đặc biệt đối với đối phương như Mỹ, Canada... lúc đó. Anh như là một phiên dịch viên “thầm lặng” vậy. Ông Lê Minh Đào (Ba Đào) - Trưởng Ban Liên hiệp cứ khen: “Có Trường Thiên bên cạnh, tôi yên tâm lắm…!”.
Trước khi Phạm Trường Thiên “về trời”, thọ sáu mươi hai tuổi, do cơn bệnh đột quỵ quái ác. Khi đó, anh đã là giám đốc một xí nghiệp đường có tầm cỡ của Bến Tre qua nhiều năm.
Mãi cho đến hôm nay, dù đã qua bao thập niên rồi, nhưng mỗi lần về họp mặt, mỗi chuyến ghé thăm Báo Chiến Thắng (nay là Báo Đồng Khởi) của quê hương ruột thịt Bến Tre, tôi vẫn bồi hồi nhớ tới người đồng nghiệp - người bạn đời chí cốt Phạm Trường Thiên.
Tháng 11-2011