Trong những chiếc áo bà ba truyền thống hay oai nghiêm với màu xanh quân phục, gặp nhau, họ mừng đến ôm chầm lấy đôi vai hoặc siết chặt cả đôi tay cô đồng đội mà run run giọng trong từng tiếng gọi nhau: chị Thủ trưởng (Thu Hà)!, Chị Hồng bắn tỉa!, Chị Bí thư (Mười Thành)!, Chị Thắng Lợi!, chị Minh Tâm!, chị Trung Lập!…
Họ là đội quân tóc dài đầu tiên của miền Nam sau cao trào Đồng Khởi năm 1960. Có chị đã không còn dịp họp mặt để được gọi tên nhau một cách ấm tình như thế như chị Thanh Hùng, Sáu Đoạn, Minh Hòa… nhưng mãi mãi họ vẫn sống trong lòng những đồng đội còn đây và thế hệ hôm nay.
Trời chiều nghiêng bóng, màu nắng đẹp. Chuyến xe về nguồn của gần trăm đồng chí bộ đội Thu Hà - đơn vị C710 dừng lại tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã Bình Khánh (nay là Bình Khánh Đông), Mỏ Cày. Trước sân Ủy ban đã có nhiều đồng chí bộ đội Thu Hà sống và làm việc tại đây đang nóng lòng chờ đợi phút họp mặt từ rất sớm.
Ngày xuân về nguồn, uống ngụm nước dừa ngọt lành ở nơi tạm gọi là hội trường được xây bằng cây lá đơn sơ, họ hát vang những bài ca cách mạng: “Chúng tôi là người lính cụ Hồ”, “Cuộc đời vẫn đẹp sao”, “Đội nữ vũ trang”, “Đoàn nữ hiên ngang” hay “Ai bán cháo gà”… Tuy sức khỏe các chị giờ đã kém đi nhiều, giọng ca không còn vút cao, trong, khỏe nhưng vẫn còn đây trái tim hừng hực lửa và khí tiết người con gái quê hương Đồng Khởi anh hùng. Trong số họ, có người đang làm mẹ, làm bà. Có chị tiếp tục công tác, có chị trở về với cuộc sống đời thường. Song, vẫn có một số chị lâm vào cảnh sống khó khăn. Trong phút giây họp mặt thiêng liêng, cảm xúc chợt tràn về, các chị gần như đang sống lại với hồi ức…
Ngày 4-1-1964, do nhu cầu cần thiết của cách mạng, đơn vị nữ vũ trang C710 được thành lập với nhiệm vụ vừa tuyên truyền vận động thanh niên cứu nước, nhân dân trong vùng địch chiếm, vùng tôn giáo giác ngộ cách mạng, vừa trực tiếp cầm súng chiến đấu tham gia diệt ác phá kìm, phá ấp chiến lược, chống càn, phối hợp đơn vị bạn bao vây đồn bót địch… Đồng chí Thu Hà làm Trung đội trưởng. Lực lượng ban đầu là 36 cô gái còn rất trẻ, áo bà ba, tóc thề tết bím, đến từ các huyện Châu Thành, Bình Đại, Giồng Trôm, Ba Tri, Thạnh Phú và Mỏ Cày. Cả đơn vị 3 tiểu đội hầu hết tuổi từ mười lăm, mười sáu đến hai mươi. Cao tuổi nhất có lẽ là cô Mười Thành- chính trị viên trung đội cũng chỉ mới ba mươi hai tuổi. Bấy giờ, ai đang yêu quyết tạm gác lại, ai chưa yêu thì hẹn đến ngày quê hương xứ dừa quét sạch bóng giặc thù.
“Ban đầu ai cũng lo lắng nhưng sau hai tháng rèn luyện hăng say, nếm đủ mùi lăn, lê, bò, lết nơi thao trường, tất cả chị em đã có kỹ năng bắn súng rất tốt”, đồng chí Thu Hà kể. Ai cũng phấn khởi khi được nhận nhiệm vụ về công tác địa phương và ở cùng nhà dân. Đến xã Tân Thiềng (Chợ Lách), một cụ già hỏi cắc cớ: “Chinh phu là người đàn ông đi chinh chiến. Chinh phụ là vợ ở nhà nuôi dạy trẻ. Thế đàn bà đi chinh chiến thì gọi là gì?” Mười Thành bình tĩnh đáp: “Đất nước có chiến tranh, mọi người đều có trách nhiệm góp phần mình vào công cuộc kháng chiến, không kể tuổi tác hay thành phần xã hội. Từ người già cho đến trẻ em, từ đàn ông cho đến phụ nữ… Những chị em cầm súng như chúng cháu, bác cứ gọi là phụ nữ giúp nước ạ”! Ai chưa hiểu vẫn cứ cho các chị là “bộ đội kiểng”. Một lần cô Mười Thành tâm sự với Thắng Lợi- cô gái nhỏ nhắn nhưng lanh lẹ và có lý tưởng: “Người ta khinh mình là bộ đội kiểng, là nữ tặc, nhưng gian khổ, ác liệt mấy mình cũng chịu được. Đơn vị nữ thà quyết hy sinh chứ không ai chấp nhận đầu hàng”.
Ngay trận đánh mở màn tại Cái Mơn vào cuối năm 1964, các chị đã khiến nao lòng quân địch, chinh phục lòng tin yêu của nhân dân. Trận này chỉ có Trung đội trưởng Thu Hà và Thắng Lợi giả làm hai cô gái bê hai thúng rau tập tàng ra chợ bán để thăm dò quy luật sinh hoạt tại bót địch. Lanh trí chọn đúng thời cơ, tức khắc Thu Hà giở chiếc nón lá ra hiệu hành động cho đồng chí Thắng Lợi, ngồi xuống, các chị thọt sâu tay lấy lựu đạn dưới những lớp rau rồi nhắm chính xác quăng vào toán quân địch hơn chục tên đang tụ nhóm làm náo động cả chợ Cái Mơn. Tích tắc vài giây, hai chị đã tiêu diệt 13 tên địch và nhất là diệt hết cả 2 tên ác ôn là cảnh sát Hòa và Quới.
Tiếng đồn về đơn vị nữ vũ trang do Thu Hà chỉ huy lan nhanh khắp tỉnh. Bà con thay đổi cách nghĩ. Tên gọi thân thương “bộ đội Thu Hà” xuất hiện từ đó. Còn với giặc, nghe trận đánh nào có phụ nữ, chúng cũng cho đó là bộ đội Thu Hà.
Liên tiếp là những trận chống càn tại Tân Thiềng (Chợ Lách) vào tháng giêng năm 1965, trận bình định tại Tân Xuân (Ba Tri), trận ném đá giấu tay tại Tân Thạch, Quới Thành (Châu Thành), trận phối hợp bao vây bót Lương Phú của tên Tổng Gẩm ác ôn làm chỉ huy…
Bộ đội Thu Hà đi đến đâu, thắng lợi đến đấy. Địch khiếp sợ bởi cách đánh ngụy trang linh hoạt, bất ngờ khiến địch không thể lường trước. Cứ thế, chúng lần lượt “mất đầu”, “mất đuôi”, khi chết hàng loạt nên lúc nào cũng đề cao cảnh giác, sợ hãi.
Nữ, nhưng gặp giặc thì đánh mưu trí, quyết liệt và khỏe không thua nam giới như hình ảnh đồng chí Thắng Lợi- một cô gái gầy gầy, nhỏ nhắn đã liên tiếp bắn 120 viên đạn trường bá đỏ trong trận Tân Thiềng (Chợ Lách) làm bọn địch khiếp đảm. Còn đồng chí Mỹ Lệ vào đơn vị chỉ mới 15 tuổi nhưng vẫn không biết đến hai từ khiếp sợ. Trong một lần bị địch vây, chị bình tĩnh nép vào gốc dừa nả pháo ngược lại địch. Bọn chúng quyết phải bắt sống chị để xem nòng súng của chị có “câm” lại không! Nhưng nòng súng ấy vẫn hướng thẳng nả vào đầu địch. Nhiều lần vào ra các nhà tù Thủ Đức, Tam Hiệp, Chí Hòa, đặc biệt những năm tháng bị nhốt trong chuồng cọp ở nhà tù Côn Đảo, chịu sự tra tấn dã man, đối xử hà khắc của giặc, nhưng đồng chí nữ đảng viên ấy trước sau vẫn kiên định với lập trường cách mạng.
Mười năm đơn vị tồn tại, mười năm các chiến sĩ nữ vũ trang đã cống hiến tuổi thanh xuân để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong sự nghiệp cách mạng. Để hôm nay, những ai còn là nhân vật sống của lịch sử vẫn phải tiếp tục thể hiện tinh thần xung kích, phẩm chất truyền thống của bộ đội Thu Hà. Nhiều đồng chí tiếp tục được giao nhiệm vụ ở các tỉnh thành khác. Nhưng từ khi thành lập Ban liên lạc đơn vị đến nay, họ đã 6 lần họp mặt để ôn lại truyền thống hào hùng và quan trọng nhất là để tìm hiểu, chia sẻ, giúp đỡ thiết thực với những chị em trong đơn vị, người dân quê hương còn nhiều khó khăn. Nước mắt chan hòa mỗi khi các chị tìm gặp người đồng đội ngày xưa giờ vẫn chưa có một ngôi nhà tươm tất để che mưa, che nắng lúc tuổi xế chiều. Dù cho tóc có bạc, đôi chân đã run run chậm bước, họ vẫn đi, đi tiếp, đi mãi cho trọn một hành trình đầy trách nhiệm, thiêng liêng…