Thắc mắc của bà được luật sư Lê Vũ Hồng Huệ (Đoàn Luật sư Bến Tre) tư vấn như sau:
- Khoản 1 Điều 66 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) quy định: “1. Người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng”.
Tại Khoản 3 Điều 66 BLTTHS quy định, người làm chứng có các quyền như sau:
“a- Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại điều này;
...
d- Được cơ quan triệu tập thanh toán chi phí đi lại và những chi phí khác theo quy định của pháp luật”.
Khoản 4 Điều 66 BLTTHS quy định, người làm chứng có các nghĩa vụ như sau: “a- Có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Trường hợp cố ý vắng mặt mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan và việc vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử thì có thể bị dẫn giải;
b- Trình bày trung thực những tình tiết mà mình biết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và lý do biết được những tình tiết đó”.
Ngoài ra luật còn quy định, người làm chứng khai báo gian dối hoặc từ chối khai báo, trốn tránh việc khai báo mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự. Cơ quan, tổ chức nơi người làm chứng làm việc hoặc học tập có trách nhiệm tạo điều kiện để họ tham gia tố tụng.
Điều 293 BLTTHS năm 2015 quy định về sự có mặt của người làm chứng được quy định như sau: “1. Người làm chứng tham gia phiên tòa để làm sáng tỏ những tình tiết của vụ án. Nếu người làm chứng vắng mặt nhưng trước đó đã có lời khai ở Cơ quan điều tra thì chủ tọa phiên tòa công bố những lời khai đó. Nếu người làm chứng về những vấn đề quan trọng của vụ án vắng mặt thì tùy trường hợp, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử.
2. Trường hợp người làm chứng được Tòa án triệu tập nhưng cố ý vắng mặt mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan và việc vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc xét xử thì Hội đồng xét xử có thể quyết định dẫn giải theo quy định của Bộ luật này.”
Bà được cơ quan điều tra xác định là người làm chứng và đã cho lời khai tại cơ quan điều tra. Việc từ chối ra làm chứng trước tòa không do cá nhân bà quyết định. Tuy nhiên, nếu bà có lý do chính đáng thì bà có thể làm đơn xin xét xử vắng mặt.
Khi bà đã được Tòa án triệu tập tham dự phiên tòa thì bà phải chấp hành; nếu không, bà có thể bị Hội đồng xét xử ra quyết định dẫn giải bà đến có mặt tại phiên tòa.
Tùy vào tình tiết cụ thể của vụ án, Hội đồng xét xử sẽ áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật để tiến hành xét xử vụ án.
H.Trâm (thực hiện)