|
| Phân hữu cơ vi sinh được ủ gần 2 tháng. |
Những năm gần đây, hoạt động khoa học và công nghệ (KHCN) cơ sở, tiêu biểu là các huyện đã có bước phát triển đáng kể, vượt bậc thông qua việc đầu tư, hỗ trợ người dân thực hiện các mô hình tiến bộ khoa học kỹ thuật phù hợp. Các mô hình triển khai đã góp phần chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, cải thiện kinh tế, tạo nguồn thu ổn định, bền vững cho người dân nông thôn.
Nuôi
dê kết hợp với thâm canh vườn dừa
Anh Lê Vĩnh Lợi ở xã Tân Phú Tây, huyện Mỏ Cày Bắc, được
hỗ trợ 4 con dê giống (dê Bách Thảo) với trọng lượng trung bình 15kg/con và hướng
dẫn kỹ thuật nuôi từ mô hình nuôi dê sinh sản kết hợp thâm canh vườn dừa bằng
phương pháp bón phân chuồng. Anh là một trong 6 hộ tiêu biểu trong huyện được
chọn tham gia mô hình. Anh Lợi đã thực hiện theo hướng dẫn kỹ thuật nuôi dê do
cán bộ kỹ thuật hướng dẫn, sử dụng phân và nước tiểu của dê bón cho vườn dừa
nhà mình.
Về phương pháp bón phân dê: trước khi bón, ủ phân với nấm
Trichoderma khoảng 1 tháng, bón 2 lần/năm. Lần thứ nhất vào đầu mùa mưa (khoảng
tháng 4 và 5), bón 2 hố đối diện nhau qua cây dừa, mỗi hố sâu khoảng 40 - 50cm,
rộng khoảng 40cm x 50cm, bón xong dùng đất lấp lại hoặc bồi bùn phủ lên. Lần thứ
hai vào cuối mùa mưa (khoảng tháng 10 và 11) bón 2 hố mới giống như 2 hố trước,
sao cho 4 hố qua 2 lần bón qua tâm cây dừa vuông góc với nhau là tốt nhất.
Phương pháp tưới nước tiểu: tạo hầm chứa nước tiểu khoảng 1m3, khoảng từ 5 - 7
ngày dùng motor bơm tưới cho vườn dừa 1 lần.
Anh Lợi cho biết: Sau 10 tháng nuôi, anh có tổng đàn dê
là 9 con (4 con được đầu tư ban đầu sinh ra 2 dê con, anh đầu tư mua thêm 3 dê
con). Hiện anh đang chuẩn bị bán 2 con dê thịt, với giá khoảng 102 ngàn đồng/kg,
lợi nhuận ban đầu ước đạt 8 triệu đồng. Vườn dừa của anh khi sử dụng nước tiểu,
phân dê trở nên xanh tốt, cho trái sai hơn so với sử dụng phân hóa học. Nuôi dê
chủ yếu sử dụng nguồn thức ăn tự nhiên, thịt dê đang được ưa chuộng trên thị
trường, giá dê thịt tương đối cao. Theo anh Lợi, mô hình này rất cần được nhân
rộng, vừa gia tăng thu nhập cho gia đình, vừa bảo vệ môi trường.
Hiệu
quả cao từ mô hình ủ phân vi sinh
Mô hình ủ phân hữu cơ vi sinh bón cho cây trồng tại nông
hộ đã được triển khai cho 5 hộ trên địa bàn xã Cẩm Sơn, huyện Mỏ Cày Nam. Mô
hình đã xây dựng được quy trình ủ phân hữu cơ từ phân gia súc kết hợp
với phế phụ phẩm sẵn có ở địa phương nhằm giúp nông dân nắm bắt kỹ
thuật sản xuất phân ủ đơn giản và hiệu quả, phù hợp với điều kiện
sản xuất tại nông hộ, tận dụng được phế phụ phẩm sẵn có, góp phần giảm
chi phí đầu tư trong sản xuất nông nghiệp.
Việc sản xuất phân hữu cơ vi sinh giúp nông hộ sử dụng tốt
nguồn phế phụ phẩm trong chăn nuôi và trồng trọt, rác thải hữu cơ, sản xuất
phân hữu cơ ủ hoai có bổ sung vi sinh vật có ích, với giá thành ước tính 1.500
đồng/kg so với giá các loại phân hữu cơ được bán trên thị trường hiện nay 3.500
- 4.000 đồng/kg.
Sử dụng phân hữu cơ, quá trình canh tác không sử dụng thuốc
hóa học giúp bảo vệ sức khỏe người sản xuất, người tiêu dùng và cộng đồng dân
cư. Đã xử lý và sử dụng tốt nguồn chất thải chăn nuôi, phế phụ phẩm nông nghiệp
của địa phương, góp phần nâng cao thu nhập, tạo việc làm cho người sản xuất
nông nghiệp.
Thực tế cho thấy, mô hình phân vi sinh đem lại hiệu quả
kinh tế cao, tiết kiệm chi phí, lại giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Hơn nữa, hiện
nay giá phân bón ngày càng tăng cao, sử dụng phân hữu cơ vi sinh bà con có thể
chủ động được nguồn phân bón với cách làm đơn giản, chỉ trong thời gian khoảng
60 ngày là có phân cho sản xuất nông nghiệp mà chi phí tương đối thấp, khoảng
1,5 triệu đồng/tấn.
Hiện nay, việc sử dụng quá mức cần thiết các loại phân
bón và thuốc trừ sâu hóa học trong canh tác nông nghiệp đã làm cho môi trường
ngày càng ô nhiễm nặng nề, rất nhiều nơi đất bị bạc màu, không có độ mùn, độ
tơi xốp và dư lượng NPK do cây trồng không sử dụng hết đã làm ảnh hưởng đến chất
lượng, năng suất và cây trồng. Mô hình sản xuất phân hữu cơ vi sinh bón cho cây
trồng tại nông hộ đã góp phần cải tạo đất, nâng cao năng suất cây trồng và tiết
kiệm chi phí sản xuất, lại rất phù hợp với tập quán canh tác của bà con nhân
dân. Đây là mô hình cần được phát triển và nhân rộng đến toàn bộ các địa phương
trong huyện có cùng điều kiện.