|
Xe cung cấp nước ở Bình Đại. Ảnh: T.Lập |
Nước mặn đang tiếp tục theo các sông chính xâm nhập vào đất liền, gây ảnh hưởng trên diện rộng. Trên sông Hàm Luông, tại Mỹ Hóa (TP Bến Tre), độ mặn đo được từ 8 – 10%o, vàm Cái Mơn (Chợ Lách) từ 3,5-5%o. Trên sông Cửa Đại, tại Giao Hòa (Châu Thành), độ mặn từ 6 – 8%o. Sông Cổ Chiên, độ mặn 5 – 7%o xâm nhập đến Thành Thới B (Mỏ Cày Nam). Độ mặn 1,6%o đã phủ khắp địa bàn tỉnh. Theo đánh giá sơ bộ của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nước mặn ảnh hưởng và làm giảm năng suất 26.900 ha cây ăn trái, 4.000 ha ca cao, 450 ha hoa màu, 500 ha lúa thiếu nước tưới, 22.200 hộ khan hiếm nước ngọt sinh hoạt.
Ông Trần Văn Hoàng, Quyền Trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Giồng Trôm cho biết, nước mặn từ sông Hàm Luông xâm nhập vào vàm Thủ Cửu (vàm Phước Mỹ) và sông Bến Tre chảy xuống sông Giồng Trôm. Ở các kênh nội đồng trên địa bàn huyện, độ mặn đo được từ 2,9 – 4,4%o. Diện tích đất gieo sạ lúa đang bước vào giai đoạn thu hoạch không lo ngại thiệt hại, nhưng đối với nhiều loại cây trồng, sự phát triển đang có dấu hiệu chựng lại, trong đó, cây ca cao rất mẫn cảm với nước mặn. Ông Hoàng nói thêm, năm nay, tình trạng mặn diễn ra gay gắt và gây thiệt hại nghiêm trọng là không tránh khỏi.
Trên địa bàn huyện Bình Đại, nước mặn theo sông Cửa Đại xâm nhập vào đất liền, hàng chục ha đất trồng lúa và hoa màu của nhân dân thuộc tiểu vùng I bị thiệt hại. Nước sinh hoạt đang là vấn đề nóng bỏng. Một số hộ dân sống ở đất giồng cát khai thác nước ngọt tầng nông để cung cấp cho những hộ dân ven biển. Cao điểm mặn kết hợp nắng nóng, nước ngọt khai thác không đủ đáp ứng nhu cầu, xảy ra tình trạng tranh giành từng xe nước. Những hộ nằm trên trục lộ chính hoặc gần nơi cung cấp nước chặn xe chở nước và trả tiền cao để có nước ngay, các hộ nằm sâu phía trong phải đăng ký trước vài ngày, may ra mới có nước xài. Xe chở một bồn khoảng 1m3 nước có giá thấp nhất cũng phải 50.000 đồng.
Ông Bùi Văn Lâm, Phó Chủ tịch UBND huyện Thạnh Phú cho rằng, ngay vùng ngọt hóa thuộc dự án 418 của huyện vẫn phải sống chung với mặn do các cống và đê bao ven sông Hàm Luông xuống cấp trầm trọng. 3.500 ha đất trong vùng dự án ngọt hóa nhưng chỉ gieo sạ được 75 ha ở vụ đông xuân. Độ mặn đỉnh điểm lên đến 25%o, gây thiệt hại 300 ha đất nuôi tôm lúa. Toàn huyện có 7/8 nhà máy nước bị nhiễm mặn từ 2-5%o, duy nhất nhà máy nước thị trấn Thạnh Phú cung cấp nước ngọt, do huyện đã đầu tư kinh phí hơn 100 triệu đồng ngăn mặn xâm nhập. Trung tâm nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường nông thôn đang quản lý 51 nhà máy, phục vụ nước sinh hoạt hơn 25.000 hộ dân. Hiện, nhiều nhà máy phải cung cấp nước mặn cho dân. Ngay nhà máy Tân Mỹ (Ba Tri) lấy nước trong cống đập Ba Lai vẫn phải nhiễm mặn 0,9%o. Mùa khô còn kéo dài hơn 1 tháng rưỡi nữa và mặn diễn biến phức tạp, nhà máy này cũng phải cung cấp nước mặn cho khách hàng. Công ty TNHH một thành viên cấp thoát nước Bến Tre nằm ở vị trí thuận lợi và cung cấp nước ngọt phần lớn cho nhân dân đô thị, vẫn phải trăn trở. Ông Phạm Chí Vũ - Giám đốc công ty cho rằng, ngay từ cuối năm 2009, đơn vị đã có phương án khắc phục mặn nhưng vẫn trở tay không kịp. Công ty lắp đặt trạm bơm nước thô thuộc địa bàn xã Thành Triệu (Châu Thành) cách nhà máy nước Sơn Đông 10 km nhưng vẫn phải lấy nước mặn. Nhà máy nước ngầm Hữu Định (Châu Thành) chỉ khai thác công suất 8.000 m3/ngày và đêm, phải ưu tiên phục vụ cho khu công nghiệp Giao Long, số còn lại không đủ hòa vào nước của nhà máy Sơn Đông để kéo giảm độ mặn. Công ty đang nghĩ đến phương án hợp đồng xà lan chở nước ngọt về tại nhà máy đường ở Khu Công nghiệp An Hiệp để cung cấp cho công ty, nhưng giá thành rất cao (26.000 đồng/m3).
Ông Nguyễn Văn Thới, Phó Chủ tịch UBND huyện Ba Tri cho rằng, huyện đã có bước chuẩn bị để ứng phó với mặn thông qua việc rà soát hệ thống cống, đê bao ngăn mặn và nạo vét kênh nội đồng. So với các huyện khác, Ba Tri chưa vào cao điểm ảnh hưởng gay gắt từ mặn, nhưng lúa thu hoạch giảm năng suất. Ông Thới ngại tình trạng mặn kéo dài, nước trong kênh nội đồng cạn dần và khi bước vào mùa mưa, phèn lên, ảnh hưởng sản xuất lúa. Bên cạnh đó, nhiều hộ dân lấy nước trực tiếp từ các kênh phục vụ sinh hoạt là điều kiện thuận lợi cho dịch bệnh xảy ra. Tại Chợ Lách, nhiều đê bao cục bộ đã phát huy tác dụng. Huyện khuyến cáo nhà vườn lấy nước vào lúc nhửng lớn (nước ròng bắt đầu chuyển sang lớn) để tưới cây nhưng cách làm này vẫn bị ảnh hưởng mặn.
Ông Cao Văn Trọng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh cho rằng, tỉnh và các huyện đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo các ngành các cấp chủ động đối phó với mặn, nhưng đến thời điểm này, dân thiếu nước ngọt phục vụ sinh hoạt. Đây là khuyết điểm lớn, các ngành các cấp cần phải rút kinh nghiệm. Ngay thời điểm này, tỉnh chỉ đạo các huyện phải ưu tiên hàng đầu trong việc giúp dân khắc phục mặn. Tỉnh cũng đã nghĩ đến việc chở nước ngọt về cung cấp cho dân phục vụ sinh hoạt. Trước mắt, các địa phương cần rà soát lại tất cả hệ thống kênh mương. Nơi nào chưa nhiễm mặn thì tiến hành làm đê cục bộ để nhân dân có nước ngọt phục vụ sinh hoạt, sản xuất. Từng huyện phải tính toán phương án hỗ trợ nhân dân khắc phục mặn; vận động các dịch vụ cung cấp nước ưu tiên phục vụ nhân dân. Trung tâm Y tế dự phòng phải phối hợp với các địa phương phòng dịch bệnh, không đợi khi xảy ra dịch bệnh mới hỗ trợ nhân dân. Song song đó, các sở, ngành cũng phải quan tâm đến dịch bệnh xảy ra trên cây trồng, vật nuôi. Các huyện đẩy mạnh tuyên truyền tạo ý thức trong nhân dân “sống chung với mặn”. Những địa phương ảnh hưởng mặn gay gắt phải tính toán chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng thích nghi với mặn. Việc mời gọi các doanh nghiệp đầu tư nhà máy cung cấp nước sinh hoạt phải nghĩ đến lợi ích hai bên. Thực tế, ở vùng sâu, vùng xa, doanh nghiệp đầu tư nhà máy chỉ phục vụ nhân dân trong mùa nắng, còn vào mùa mưa, đa phần hộ dân không sử dụng nước nhà máy. Những hộ dân có điều kiện nên mua lu, xây hồ trữ nước, tỉnh chỉ hỗ trợ những hộ dân thật sự khó khăn. Trong thời gian chờ Chính phủ đầu tư các dự án lớn, tỉnh và huyện phải căn cứ điều kiện thực tế để có giải pháp giúp nhân dân…