Những trận đánh đồn ghi dấu ấn

04/12/2011 - 17:10

Được thành lập sau Đồng Khởi năm 1960, Đại đội Đặc công thị xã Bến Tre (thường gọi C3) đã lập nên những chiến tích oai hùng. Đội đã có những trận diệt ác, trừ gian, triệt phá đồn địch thật bất ngờ, táo bạo, góp phần to lớn vào việc giải phóng nhanh thị xã Bến Tre (TXBT), làm nên thắng lợi 30-4 lịch sử. Phóng viên Báo Đồng Khởi đã có cuộc trao đổi với ông Phạm Văn Chấp (Năm Lê Minh) là nhân chứng sống trong thời điểm này.

 

Lúc mới thành lập, Đại đội Đặc công có khá đông người, thường gọi là C3, do đồng chí Hai Lê Phong và đồng chí Ba Lộc chỉ huy. Sau đó, do có nhiều anh em hy sinh, chỉ còn lại khoảng 40 người nên còn gọi là Phân đội 3 Đặc công. Năm 1972, tôi là Phân đội trưởng - ông Lê Minh kể. Dù ít người, nhưng với tinh thần dũng cảm, gan dạ, C3 đã có nhiều trận đánh vang dội. Thời điểm này, hễ nghe nhắc đến tên C3 là quân địch vô cùng khiếp sợỉ.

Một trong những trận đánh đồn địch ghi dấu ấn của C3 là trận diệt đồn, phá cầu Vĩ (lộ số 5, nay là đường tỉnh 887) vào năm 1972. Ông Minh nhớ lại: “Khoảng tháng 3-1972, Tỉnh Đội muốn mở chiến dịch để giải phóng Ba Tri nên giao cho C3 bằng mọi giá phải cắt lộ số 5, chặn đường tiếp tế của địch. Cùng lúc này, nhiệm vụ đánh cầu Chẹt Sậy được giao cho đơn vị Đặc công tỉnh. Nhiệm vụ của chúng tôi là phải phá hủy cầu Vĩ trên lộ số 5, muốn vậy, phải tiêu diệt hai đồn địch đóng ở hai bên cầu”. Nhận được lệnh, C3 tổ chức hai tổ trinh sát xâm nhập vào đồn địch để điều tra, nghiên cứu địa hình: tổ 1 do ông Năm Minh (bấy giờ là Thượng sĩ) chỉ huy cùng hai chiến sĩ, gồm: ông Thanh Hải (hiện nay là Đại tá - Trưởng Phòng Tác chiến Quân khu 9) và ông Chiến “con” (hiện ở xã Hữu Định - Châu Thành) vào đồn địch đóng ở phía dưới cầu (thuộc xã Phú Nhuận TP. Bến Tre hiện nay); tổ 2 do ông Tư Ưu (đã hy sinh) chỉ huy cùng ông Sơn Hùng (hiện ở Bình Đại) và hai chiến sĩ nữa vào đồn địch đóng ở phía trên cầu (xã Mỹ Thạnh An TP. Bến Tre ). Đêm đầu đột nhập mục tiêu, tổ 1 vượt qua được 5 vòng rào địch, tới một mương tường thì gặp một bầy ngỗng và đàn chó dữ 3 con. Bằng kỹ thuật nghiệp vụ, tổ 1 dẫn dụ được ngỗng và chó đi nơi khác, nắm tình hình địch rồi rút lui an toàn. Cùng thời gian này, tổ 2 cũng men theo đường rạch đột nhập vào đồn địch (đồn phía trên cầu) nắm được tình hình địch. Đêm thứ hai, cả hai tổ lại cùng đột nhập mục tiêu, chọn vị trí thuận lợi để bố trí hỏa lực tiêu diệt địch. Sau đó, C3 tiến hành lập phương án công đồn, báo cáo lên Thị Đội và được ông Lê Giang (Thị Đội trưởng) nhất trí. Chiều hôm sau, khi mọi thứ đã chuẩn bị sẵn sàng, C3 xuất phát lên đường, theo kế hoạch đúng giờ G sẽ nổ súng, giao cho tổ ông Tư Ưu khai hỏa trước. Nhằm đề phòng xảy ra bất trắc, ông Minh dự phòng thêm một tiểu đội dự bị, có trang bị 2 khẩu B40, thủ pháo, AK trong tư thế sẵn sàng chiến đấu; tổ này do ông Năm Long - Chính trị viên Phân đội chỉ huy, đóng quân ở gần mục tiêu. Đêm hôm ấy, lực lượng chiến đấu của tổ 1 áp sát đồn địch, vào vị trí chiến đấu (đã định sẵn) rất thuận lợi. Riêng tổ 2 gặp sự cố bất ngờ do địch kiểm soát gắt gao, liên tục bắn đạn từ chòi canh về phía mé rạch, tổ của ông Tư Ưu không thể tiến sát vào được. Đúng 23 giờ, đặc công tổ 1 nổ súng chớp nhoáng tiêu diệt địch, chiếm lĩnh đồn này. Nghe tiếng súng, quân địch ở đồn bên kia rạch cầu Vĩ (phía xã Mỹ Thạnh An) liền tiếp viện để cứu nguy. Ông Minh liền ra lệnh cho tiểu đội dự bị bắn B40 vào đồn địch, đồng thời lệnh cho đặc công tổ 1 vượt qua cầu Vĩ chiếm đồn. Cùng lúc, C3 phát loa kêu gọi địch đầu hàng. Hoảng sợ, quân địch bỏ chạy tán loạn. Trận này, ta thắng lợi hoàn toàn mà không bị thương vong, tiêu diệt được nhiều địch, bắt sống được 4 lính đồn, thu được nhiều súng đạn cùng máy liên lạc PRC10. Ngay trong đêm, lực lượng dân công, du kích xã Phú Nhuận ào ra đốt, phá sập cầu Vĩ, cắt đường tiếp tế của địch quân hơn một tháng.

Năm 1973, địch không tôn trọng hiệp định Paris và chủ trương lấn đất, giành dân. Địch huy động lính của Trung đoàn 10, Sư đoàn 7 và lực lượng lính Bảo an ở các tiểu đoàn 401, 413, 415, 418 với hỏa lực mạnh tập trung bao vây căn cứ của Tỉnh ủy và Tỉnh Đội ở Rạch Lá, Rạch Heo (khu vực các xã Phước Long, Long Mỹ, Tân Lợi Thạnh - Giồng Trôm). Lực lượng ta đánh trả hơn 7 ngày nhưng địch vẫn không rút lui mà càng siết chặt vòng vây hơn. Trước tình hình đó, ông Vũ Khắc Sương (bấy giờ là Tỉnh Đội trưởng) liên lạc với ông Ngô Tiến Được (Tư Được, Thị Đội trưởng) bàn kế hoạch đánh địch. Đặc công C3 nhận được nhiệm vụ đánh ngay Trung tâm chỉ huy cảnh sát dã chiến địch (đóng ở bờ hồ Trúc Giang), mục đích nhằm làm địch hoang mang và rút lực lượng bao vây căn cứ cách mạng. Đêm đầu đi trinh sát, C3 phát hiện có chốt lính địch đóng ngay ngã ba (nay là ngã ba đường Nguyễn Huệ - Hai Bà Trưng). Đêm thứ hai, trinh sát C3 lại tiến vào điều nghiên tình hình địch. Sau đó, lập kế hoạch tấn công và được Tỉnh Đội góp ý, phê duyệt. Đêm thứ ba, trinh sát dẫn đường cho bộ đội vượt rạch cầu Cá Lóc tiến về Trung tâm cảnh sát dã chiến. Trên đường đi, có một tiểu đội phòng vệ dân sự địch đóng ngay ngã ba (đường Nguyễn Huệ - Hai Bà Trưng). Chốt này, hai đêm trước không có địch gác. Trinh sát báo cáo với ông Tư Được và được lệnh phải bắt sống mấy tên lính phòng vệ này. Nhận lệnh, ông Chiến “con” bò vào chỗ bọn lính đang ngủ, tịch thu vũ khí của chúng và kề súng bắt từng tên một. Sau đó, bộ đội ta bố trí một khẩu B40 để diệt địch ở chốt gác ngay ngã ba Hai Bà Trưng - Nguyễn Huệ. Còn lại hỏa lực gồm một khẩu B40, bốn khẩu B41 cùng 20 súng AK theo đường Lê Quý Đôn tiến thẳng vào Trung tâm chỉ huy cảnh sát dã chiến mà địch không hề hay biết. Đúng giờ G, bộ đội ta đồng loạt nổ súng, quân địch không kịp trở tay nên bị thiệt hại nặng nề. Quân ta rút lui an toàn. Chiến thuật cường tập địch thắng lợi hoàn toàn. Sáng hôm sau, Tỉnh trưởng Kiến Hòa ra lệnh cho lực lượng bao vây căn cứ Tỉnh ủy rút lui về phòng thủ Thị xã. Âm mưu đánh chiếm cơ quan đầu não của địch bị thất bại hoàn toàn. Theo báo cáo của cơ sở mật, trận này địch bị thiệt hại 36 tên và toàn bộ sĩ quan chỉ huy đều bị tiêu diệt hết.

C3 Đặc công Thị xã còn rất nhiều trận diệt đồn địch ghi dấu ấn như các trận đánh đồn Gò Dương (An Hòa, phường 8), đồn Diều Gà, đồn Cây Da (Phú Hưng), đồn Chợ Giữa (Tú Điền)… Sau năm 1975, C3 chỉ còn 30 người, có một số người tiếp tục công tác trong quân đội, một số người nghỉ hưu về quê sản xuất. Giờ đây, khi nhắc đến những chiến công năm xưa, những cựu binh C3 Đặc công thị xã Bến Tre đều rất tự hào và ngậm ngùi nhớ lại những đồng đội đã anh dũng hy sinh.

Bài, ảnh: HUỲNH ĐỨC

Chia sẻ bài viết

BÌNH LUẬN