Con sông Hàm Luông chảy trọn vẹn trên đất Bến Tre. Bao đời nay dòng sông vẫn chở nặng phù sa bồi đắp mảnh đất xứ Dừa cũng như bao mảnh đời làm nghề đưa đò cứ mãi đưa khách sang sông. Giữa sóng nước mênh mông, bỗng bắt gặp hình ảnh cô lái đò tay cầm vô lăng đưa đò chuyển bến, lòng khách chợt bâng khuâng.
Sông Hàm Luông là một phân lưu của sông Tiền cũng là ranh
giới tự nhiên giữa hai cù lao Bảo và cù lao Minh. Sông dài 70km, bắt nguồn từ
xã Tân Phú, huyện Châu Thành đi qua các huyện Chợ Lách, Châu Thành, Giồng Trôm,
TP. Bến Tre, Mỏ Cày, Ba Tri, Thạnh Phú đổ ra biển Đông tại cửa Hàm Luông. Lòng
sông sâu và rộng, độ rộng trung bình từ 1,2 - 1,5 ngàn mét, đoạn gần cửa biển rộng
hơn 3 ngàn mét. Chính vì thế, sông Hàm Luông có lưu lượng nước dồi dào nhất so
với các con sông khác của tỉnh. Trên sông có những cù lao hoặc cồn đất nổi tiếng
như: cù lao Tiên Long, cù lao Thanh Tân, cù lao Lăng, cù lao Ốc, cù lao Lá, cù
lao Đất, cồn Hố, cồn Lợi.
Sá chi sóng nước!
“Thuyền trưởng là nghề của đàn ông, sao chị lại chọn cái
nghề nặng nhọc vậy?”. “Chồng chết rồi, mình phải tự bươn chải để nuôi con”. Cuộc
chuyện trò vỏn vẹn đôi câu rồi ghe chúng tôi lướt qua nhau mất hút trên sông
Hàm Luông, chỉ còn nghe tiếng sóng vỗ.
Tìm lại chị trên bến đò Phú Khánh (Thạnh Phú) - Hưng Lễ
(Giồng Trôm), vẫn dáng dấp nhỏ bé lái con đò trọng tải mấy tấn khéo léo cập bến,
chị Nguyễn Thị Thúy Hằng ngả nón lá chào khách. Vài chị ở xóm cho hay: Bến đò
này nay đã vắng khách hơn so với trước vì đường bộ phát triển. Chị Thúy Hằng
quê ở An Định (Mỏ Cày Nam), lấy chồng về xã Phú Khánh (Thạnh Phú) đã mười mấy
năm. Nhà chồng chị Hằng nhiều năm mưu sinh ở bến. Chồng chị làm nghề thuyền trưởng,
anh chị có hai chiếc ghe, một chiếc đưa bến khách ngang sông và chiếc làm đò dọc
đi TP. Bến Tre bổ hàng hóa về xã Phú Khánh. Hơn chục năm ròng làm “trợ lý” thuyền
trưởng, chị học “lóm” nghề của anh và được anh tận tay hướng dẫn.
Rồi một ngày anh ngã bệnh, chị thay chồng tiếp tục đưa
khách sang sông, chị đi học bằng thuyền trưởng mà lòng lo lắng “chắc chỉ mình
là nữ”, ai dè lớp học tại Tiền Giang năm đó nữ nhiều hơn nam. Chị Hằng đã lấy bằng
thuyền trưởng hạng ba hạn chế, khả năng khai thác phương tiện là 2 tấn và hơn
chục khách. Chồng mất, một mình chị lái đò băng sông Hàm Luông, len vào rạch Giồng
Luông cập bến Phú Khánh. Chị Hằng tâm sự: “Giờ chiếc đò ngang này là phương tiện
mưu sinh nuôi sống 3 mẹ con. Tôi đều đặn ngày chạy 6 chuyến, hơn chục năm đã
quen với nghề, đâu e ngại sóng nước”.
Nhiều người trong nghề thuyền trưởng công nhận rằng, phụ
nữ mà làm tài công thì thường cẩn thận hơn đàn ông. Chia sẻ về lời “đồn đại”
này, chị Hằng nói: “Hồi trước thấy ông xã lái đúng thiệt là bạo hơn mình nhiều,
mình hiểu nỗi sợ của khách khi đò chòng chành. Nhất là mùa chướng, sóng lớn vỗ
liên tục, mình cho đò theo sóng mà đi chứ không rẽ sóng, có lúc phải đi một đoạn
đường dài gấp 3, 4 lần bình thường mới sang được bờ bên kia. Như vậy đò sẽ đi
nhẹ nhất và an toàn, khách không sợ hãi.
Nhờ có nghề tài công, có bằng thuyền trưởng mà khi chồng
mất chị lấy công việc làm niềm vui, say mê đưa đò, rửa đò, lau chùi con đò. Ngoảnh
nhìn lại 3 năm trường “đơn thân độc mã” trên sóng nước, người phụ nữ nhận rằng,
thuyền trưởng là nghề nặng nhọc, khổ nhất là khi chân vịt, bánh lái trục trặc
mình không thể lặn xuống sửa chữa như cánh đàn ông. Chia tay nhau, chị Hằng nói
với theo: “Ở Phú Khánh này phụ nữ làm nghề đưa đò nhiều lắm, trên con sông Hàm
Luông đó, mình chỉ là nhỏ bé với con đò nhỏ bé, mình đã gặp nhiều chị lớn tuổi
hơn, họ lái cả xà lan, lái đò dọc đưa khách và hàng hóa đi khắp nơi - xuyên đêm
thâu”.
Ba đời làm nghề đưa
đò
Ấp 1, xã Sơn Phú, huyện Giồng Trôm vốn là một cù lao nhỏ,
theo người lớn tuổi ở Sơn Phú kể, cù lao này ngày xưa còn được gọi là cù lao
Lăng. Khoảng hai năm nay, ấp này đã được phá thế biệt lập nhờ cây cầu Long
Thành nối với xã Hưng Phong. Khác với bến đò ngang Phú Khánh - Hưng Lễ, bến đò
Sơn Phú ngày càng phát triển, lượng khách sang sông cứ tăng dần. Đoạn đường từ
Mỏ Cày, Hưng Phong đi về TP. Bến Tre nếu băng ngang Ấp 1, Sơn Phú sẽ được rút
ngắn.
Cô Ba Nhanh chờ đưa khách sang sông.
Cù lao Lăng ngày xưa dân cư thưa thớt, cô Nguyễn Thị Nhanh
(Ba Nhanh) khi còn là bé gái thường theo bà ngoại chèo đò, lúc đứng mũi, khi
thì đứng lái, ngày đưa vài bận khách sang sông. Mẹ cô là con gái duy nhất, thế
nên bà ngoại yếu, cha mẹ cô lại tiếp tục làm nghề đưa đò. Sang đến đời thứ hai,
phương tiện đưa khách sang sông của gia đình cô tiến bộ hơn khi sắm được một
chiếc ghe đuôi tôm. Đôi vợ chồng đưa đò hiền lương, ai cũng thương mến, nhờ chiếc
ghe đuôi tôm, họ nuôi được người mẹ già và 7 đứa con nhỏ, trong đó có cô Ba
Nhanh. Mấy chục năm trôi qua, ngoại mất rồi mẹ, cha mất, cô Ba Nhanh cứ thế
xuôi theo dòng đời tiếp nối nghề đưa đò. Nhờ vốn liếng kinh nghiệm bao năm đã
quen trên sông Hàm Luông, cô thuần thục làm chủ con sóng.
Chăm chỉ đưa đò cả ngày lẫn đêm, giờ đây khi mái tóc đã
hoa râm, cô Ba Nhanh lui về “phụ tá” để cậu em lái chiếc phà gần 400 triệu đồng
tiếp tục băng sông mưu sinh. Cô tâm sự: “Không thể nhớ nổi đã bao nhiêu năm làm
nghề lái đò, chỉ nhớ hồi đó hơn mười tuổi đầu đã lênh đênh trên sông chèo ghe
đưa khách với ngoại”.
Trên bến đò Sơn Phú, một người phụ nữ tên Phạm Thị Nhanh
kể rằng, gia đình cô về sống tại bến đò này đã 20 năm, khi ấy cha mẹ cô Ba
Nhanh có chiếc ghe đuôi tôm, sau khi ông bà mất, cô Ba nối nghiệp, một mình cô
đưa đò nuôi gia đình, sau này người em trai mới đứng lái đò, dù là phụ nữ nhưng
cô Ba rất giỏi.
Cứ tưởng có những nghề chỉ đàn ông mới làm được, ai dè phụ
nữ chân yếu tay mềm vẫn chinh phục sóng nước như không. Không hẹn mà gặp nhau
trong cảm nghĩ, niềm vui trong nghề đưa đò của cô Nguyễn Thị Nhanh và chị Nguyễn
Thị Thúy Hằng là đưa khách qua sông, mỗi ngày được nhìn ngắm bầu trời mỗi cảnh
sắc khác nhau. Sông Hàm Luông mênh mông sóng nước, bỗng thấy những “bóng hồng”
không còn lẻ loi, bé nhỏ...