Không biêt tự bao giờ, có lẽ từ khi Phật giáo truyền vào nước ta, mỗi năm vào Rằm tháng Bảy, dân chúng nô nức tổ chức Lễ Vu Lan (thường quen gọi là Lễ báo hiếu cha mẹ).
Đây là lúc không phân biệt sang hèn, từ người ăn mày cho đến nhà giàu có, mọi người đều cố gắng làm lễ cúng Tổ tiên và dâng thức ăn ngon cho cha mẹ, biếu quần áo mới, đẹp và đồ dùng cần thiết, làm cho cha mẹ vui lòng. Đây quả là một mỹ tục.
Nhiều chuyện thật hết sức cảm động đã diễn ra trong ngày Lễ Vu Lan đã làm cho chúng ta xúc động. Chữ Hiếu trong dân gian vốn có sẵn trong đời sống con người, nhưng cũng bắt nguồn từ các giáo lý về nhân sinh của Nho giáo và Phật giáo khi được truyền vào nước ta thời kỳ đầu Công nguyên.
Theo Phật thoại, Mục Liên là đệ tử của Đức Phật, muốn báo công đức sinh thành của cha mẹ, bèn dùng tuệ nhãn soi rọi thì thấy mẹ của ngài là bà Thanh Đề bị giam cầm nơi ngục, chốn ở của ngục a-tỳ. Khi ngài dâng cơm cho mẹ, khi tay mẹ vừa chạm đến thì bát cơm hóa thành đá. Ngài về bạch với Đức Phật, Đức Phật phóng hào quang cứu rỗi, nhưng Thanh Đề vì tội nghiệt quá nhiều, nên khi vừa ra khỏi ngục a-tỳ, lại phải rơi vào ngục hắc ám. Nhờ vào lòng hiếu thảo của mình động đến trời đất và được sự hỗ trợ của chư tăng nên bà với một số chúng sinh khác đã được giải thoát. Căn cứ theo Kinh Vu Lan Bồn, Lễ Vu Lan được tổ chức vào ngày Rằm tháng Bảy, để nhắc nhở làm con phải hiếu thảo, phải tu nhân tích đức cho cha mẹ được hưởng phước, được cứu rỗi.
Trong Lễ Vu Lan có lệ phóng sinh, lệ nấu cháo lá đa cúng thí cho các cô hồn. Tấm lòng con người được thể hiện đó là lấy chữ Tâm làm gốc.
Trong xã hội Việt Nam, Nho giáo ngày xưa đã dạy “Chữ Hiếu đứng đầu trăm nết, là gốc của đạo đức con người”. Trong “Nhị thập tứ hiếu” có viết:
“Niệm chữ Hiếu cho tròn một tiết,
Thật suy ra trăm nết đều nên”
Khi cha mẹ chết, sách Trung Dung dạy chúng ta thực hiện chữ Hiếu, là “phụng sự người chết như phụng sự người đang sống”.
“Hiếu” của Nho giáo đã được Việt hóa phần nào với sự tiếp thu của các sĩ phu trí thức như: Nguyễn Trãi, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Bỉnh Khiêm,… Đặc biệt, cho đến thời đại Hồ Chí Minh, minh mẫn và tuyệt vời sao khi Bác Hồ đã đẩy được lên cao vời vợi chữ Hiếu khi cho rằng cao nhất, đẹp nhất của Hiếu là hiếu với nhân dân, vì của quý nhất của đất nước là “dân vi quý”.
Trong dân gian, chữ Hiếu đã được thể hiện ngay trong những lời ru từ khi con người mới sinh ra, còn nằm trong nôi:
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ Hiếu mới là đạo con”
Hay:
“Làm trai nết đủ trăm đường,
Trước tiên chữ Hiếu đạo thường xưa nay”
Tình cảm của người lao động đối với cha mẹ rất cụ thể:
“Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương”
Họ khuyên răn:
“Mẹ già ở túp lều tranh
Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con”
Họ nhắc nhở những người vì mải miết lo làm ăn hoặc thiếu trách nhiệm:
“Đi đâu mà bỏ mẹ già
Gối nghiêng ai sửa, chén trà ai dâng”
Dù có túng thiếu, nghèo khổ, cơ cực đến đâu, thì người con hiếu thảo vẫn có cách cư xử xứng đáng là “người con hiếu thảo”:
“Đói lòng ăn hột chà là
Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng”
Họ cũng luôn luôn cầu mong cho cha mẹ được sống lâu để phụng dưỡng, báo đáp công ơn:
“Mỗi đêm mỗi thắp đèn trời
Cầu cho cha mẹ sống đời với con”
Đối với người lao động Việt Nam luôn thể hiện rõ ý nghĩ làm tròn chữ Hiếu:
“Tu đâu cho bằng tu nhà
Thờ cha kính mẹ hơn là đi tu”
Lo cho cha mẹ, dành món ăn ngon, dành áo ấm, áo đẹp cho cha mẹ, đó là trách nhiệm của chúng ta.
Và chúng ta càng thêm nhớ về Hồ Chủ tịch, con người ấy rất trân trọng chữ Hiếu, nhưng vì hiếu với đất nước nên phải hy sinh tình riêng vì nghĩa chung. Bác từng trăn trở:
“Xa nhà đã mấy mươi niên
Đêm qua nghe tiếng mẹ hiền ru con”
Nhân Rằm tháng Bảy 2013, xin gửi lòng về các bậc cha mẹ, các bậc cùng quan tâm Lễ Vu Lan, ngày báo hiếu cho tròn “Nghĩa mẹ, Ơn cha”.