Hợp tác, liên kết nghiên cứu khoa học và chuyển giao kỹ thuật tại Bến Tre

26/09/2014 - 07:03
Ghép cây ở Long Thới, huyện Chợ Lách. Ảnh: Hữu Hiệp

Ngày 18-9-2014, Tiến sĩ Võ Hữu Thoại - Viện Cây ăn quả miền Nam (CAQMN) đã tham dự cuộc bàn giao các đề tài, dự án phát triển cây trồng giữa Bến Tre với các viện, trường, địa phương. Trong tương lai, hai bên sẽ tiếp tục liên kết với nhiều chương trình, dự án cụ thể. Nhân dịp này, chúng tôi có cuộc trao đổi với Tiến sĩ Võ Hữu Thoại.

* Phóng viên: Ông có thể cho biết một vài thông tin về thành tựu của Viện CAQMN trong thời gian gần đây?

- Tiến sĩ Võ Hữu Thoại: Trong những năm qua, Viện CAQMN đã đạt một số thành tựu quan trọng. Cụ thể là có 18 cây đầu dòng cây ăn quả được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) công nhận, trong đó có giống bưởi da xanh, sầu riêng RI-6, nhãn xuồng cơm vàng, chôm chôm…; 16 biện pháp về kỹ thuật canh tác, bảo vệ thực vật và công nghệ sau thu hoạch được Bộ NN&PTNT công nhận là tiến bộ kỹ thuật; tư vấn cho 32 mô hình sản xuất rau, quả đạt chứng nhận GlobalGAP, VietGAP với tổng diện tích trên 700ha. Đặc biệt, từ năm 2005, bằng các phương pháp lai tạo truyền thống và xử lý đột biến, Viện tạo được một số giống cây ăn quả mới như thanh long ruột đỏ Long Định 1, giống ớt cay Long Định 3, giống bưởi đường LC ít hạt LĐ 4, giống thanh long ruột tím hồng LĐ 5, giống cam sành không hạt LĐ 6, giống dưa leo F1 LĐ 7, giống đậu bắp F1 LĐ 8, giống hoa cúc LĐ 9, giống hoa đồng tiền LĐ 10.

* Đối với Bến Tre, Viện đã thực hiện những đề tài, dự án nào trong thời gian qua?

Trong khuôn khổ triển khai các nhiệm vụ khoa học công nghệ cấp bộ, dự án ADB, dự án JICA - Nhật, Viện đã ưu tiên tiến hành nhiều nghiên cứu khoa học, tổ chức nhiều khóa tập huấn chuyển giao kỹ thuật cho bà con nông dân và cán bộ nông nghiệp tại Bến Tre. Cụ thể như Đề tài “Nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật tổng hợp theo VietGAP để nâng cao năng suất và chất lượng quả chôm chôm, nhãn tiêu da bò và măng cụt”; Đề tài “Nghiên cứu chọn tạo và xây dựng quy trình sản xuất tiên tiến GAP trên cây dứa, bưởi, xoài, thanh long cho các tỉnh phía Nam”; Dự án khoa học công nghệ cấp Nhà nước vốn vay ADB “Nghiên cứu xây dựng 3 mô hình tổ chức sản xuất cho bưởi, nhãn, chôm chôm theo hướng liên kết từ trồng đến tiêu thụ sản phẩm”; Dự án “Tăng cường hệ thống khuyến nông để áp dụng tiến bộ kỹ thuật trồng cây có múi cho nông dân nghèo 5 tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long”, đã xây dựng mô hình trồng cam sành kiểu mới với qui mô khoảng 12,6ha tại Bến Tre.

Từ các nguồn kinh phí này, Viện CAQMN đã tư vấn xây dựng các mô hình sản xuất bưởi da xanh, nhãn tiêu da bò, măng cụt, chôm chôm đạt tiêu chuẩn VietGAP, với tổng diện tích 110ha. Cụ thể như Mô hình sản xuất bưởi da xanh đạt chứng nhận VietGAP năm 2011, diện tích là 6,1ha tại xã Quới Sơn, huyện Châu Thành, tái chứng nhận năm 2013, diện tích 8,5ha. Mô hình sản xuất nhãn tiêu da bò đạt chứng nhận VietGAP năm 2011, diện tích là 28,29ha tại xã Long Hòa, huyện Bình Đại, tái chứng nhận năm 2013, diện tích là 47,2ha. Mô hình sản xuất măng cụt đạt chứng nhận VietGAP năm 2011, diện tích 19ha tại ấp An Thạnh, xã Long Thới, huyện Chợ Lách. Mô hình sản xuất bưởi da xanh đạt chứng nhận VietGAP năm 2011, diện tích là 8,6ha tại xã Hòa Nghĩa, huyện Chợ Lách. Mô hình sản xuất chôm chôm đạt chứng nhận VietGAP năm 2011, diện tích là 28,8ha tại xã Tiên Long, huyện Châu Thành.

* Viện có chương trình hợp tác với Bến Tre đề tài nghiên cứu khoa học nào, thưa ông?

Viện đã hợp tác nghiên cứu khoa học và chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ (KHCN) với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long nhằm giải quyết những hạn chế trong sản xuất cây ăn trái của địa phương. Riêng tại Bến Tre, từ năm 2004-2014, Viện đã và đang hợp tác thực hiện 6 đề tài nghiên cứu khoa học. Cụ thể là Đề tài Ứng dụng tiến bộ kỹ thuật để nâng cao chất lượng thương phẩm bưởi da xanh Bến Tre (hợp tác với Sở KHCN Bến Tre năm 2004-2006, tổng kinh phí 294 triệu đồng); Quản lý bệnh hại chính trên một số cây ăn quả chính bằng ứng dụng công nghệ thông tin năm 2004-2006, tổng kinh phí 246 triệu đồng; Xây dựng mô hình sản xuất thâm canh và tổ chức tiêu thụ bưởi da xanh theo hướng hàng hóa an toàn và chất lượng cao tại huyện Chợ Lách năm 2007-2009, kinh phí 210 triệu đồng; Nghiên cứu ứng dụng các công nghệ xử lý mới trước và sau thu hoạch vào cải thiện chất lượng và nâng cao khả năng bảo quản cho quả nhãn và quả măng cụt năm 2013-2014, kinh phí 504 triệu đồng; Nghiên cứu quy trình quản lý tổng hợp sâu đục trái bưởi tại Bến Tre năm 2014-2015; Tác nhân và giải pháp phòng trừ bệnh vàng lá, nứt và thối rễ trên vườn ươm và vườn thương phẩm cây có múi năm 2013-2015, kinh phí 397 triệu đồng.

* Ông đánh giá như thế nào về hiệu quả của sự hợp tác và định hướng trong thời gian tới?

Nhìn chung, thời gian qua, sự hợp tác về nghiên cứu khoa học và chuyển giao kỹ thuật giữa Viện CAQMN với Bến Tre đạt được một số kết quả nhưng vẫn còn ở mức khiêm tốn. Chính vì vậy, ngày 16-5-2014, Viện CAQMN và Sở KHCN Bến Tre đã ký kết văn bản thỏa thuận hợp tác nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ giai đoạn 2014-2020. Để hiện thực hóa chương trình hợp tác này, Viện có đề xuất 4 nhiệm vụ, trong đó có 3 nhiệm vụ thuộc Chương trình KHCN phát triển bưởi da xanh Bến Tre giai đoạn 2014 - 2020. Cụ thể là Đề tài “Nghiên cứu áp dụng công nghệ đa dạng hóa các sản phẩm từ bưởi da xanh”; Đề tài “Nghiên cứu phát triển thị trường bưởi da xanh Bến Tre”; Dự án “Phát triển vùng nguyên liệu bưởi da xanh chất lượng cao gắn các mô hình liên kết sản xuất với thị trường tiêu thụ ổn định”; Đề tài “Nghiên cứu công nghệ bảo quản chanh giấy trong môi trường mụn dừa”.

Trong thời gian tới, các lĩnh vực tiềm năng có thể hợp tác giữa Viện CAQMN và Sở KHCN Bến Tre về giống rau, hoa và quả như hợp tác nghiên cứu về các tổ hợp ghép cây có múi chống chịu mặn, ngập; xây dựng mô hình giống cam sành không hạt; chuyển giao kỹ thuật sản xuất hoa (cúc, đồng tiền, hoa chuông); xây dựng mô hình trồng chanh dây sạch bệnh (passion fruit); Nghiên cứu tác nhân và biện pháp quản lý bệnh thối gai trái sầu riêng; ứng dụng chế phẩm Sofri - Protein trong quản lý ruồi đục quả chôm chôm; ứng dụng các chế phẩm sinh học Sofri trừ kiến, Peacylomyces, Trichoderma trong việc phòng trị dịch hại trên cây ăn trái; Hỗ trợ chuyển đổi công nghệ sau thu hoạch cho các nhà sơ chế, đóng gói, bảo quản trái cây.   

* Xin cảm ơn ông!

Hữu Hiệp (thực hiện)

Chia sẻ bài viết

BÌNH LUẬN