|
Hội Chữ thập đỏ tỉnh tặng hồ chứa nước cho người nghèo xã Thanh Tân, huyện Mỏ Cày Bắc. Ảnh: T.Long |
Hội thảo “Các giải pháp kiểm soát mặn, trữ nước ngọt phục vụ sản xuất và dân sinh vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL)” nằm trong khuôn khổ MDEC - Hậu Giang 2016 do Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, UBND tỉnh Hậu Giang tổ chức đã thu hút đông đảo các chuyên gia kinh tế, viện, trường tham gia, đánh giá thực trạng, đề xuất giải pháp để phục vụ sản xuất và dân sinh vùng ĐBSCL.
Quản lý nguồn nước
sông Mekong
Nằm ở tận cùng của lưu vực, những diễn biến nhanh chóng của
biến đổi khí hậu (BĐKH) và việc sử dụng nguồn nước sông Mekong từ thượng nguồn
đòi hỏi ĐBSCL phải thường xuyên cập nhật nhận thức về những thách thức, tác động
kép của BĐKH và sử dụng nguồn nước. GS.TSKH Nguyễn Ngọc Trân - nguyên Phó chủ
nhiệm Ủy ban Khoa học và kỹ thuật nhà nước cho rằng, sự khan hiếm nước ngọt đã
được dự báo và các tình huống cực đoan có thể sẽ xảy ra nhiều hơn, với cường độ
mạnh hơn. Cho nên, việc quản lý tốt nguồn nước sông Mekong là một yêu cầu bắt
buộc để giảm thiểu các tác hại. Nguồn nước sông Mekong phải được xem là tài sản
chung của tất cả quốc gia trong lưu vực, là nhận thức cơ bản và bức thiết. Các
quốc gia lưu vực phải sử dụng nước ngọt tiết kiệm, với hiệu quả cao nhất trong
sản xuất nông nghiệp. Mặt khác, đã đến lúc phải chung sống với nước mặn, xem nước
mặn và lợ là một dạng tài nguyên cần được khai thác.
Đại biểu chia sẻ giải pháp kiểm soát mặn. Ảnh: T.Quốc
Để ứng phó với BĐKH, bên cạnh các công trình, phải tính đến
những giải pháp phi công trình; bên cạnh các công trình “cứng, một công năng”,
có những công trình “mềm, có thể thay đổi công năng”. Khi quyết định xây dựng một
công trình phải trả lời các câu hỏi: Xây dựng ở đâu, lúc nào, hiệu quả kinh tế
- xã hội và tác động đến môi trường ra sao?
Ổn định đất trồng lúa
khoảng 1,7 triệu héc-ta
TS. Nguyễn Trọng Uyên - Phân viện Quy hoạch và thiết kế
nông nghiệp miền Nam đề xuất: “ĐBSCL cần giảm và ổn định quỹ đất chuyên trồng
lúa khoảng 1,7 triệu héc-ta, chuyển đất lúa kém hiệu quả sang các cây trồng
khác; tăng diện tích luân canh lúa - màu lên 185 - 200 ngàn héc-ta và lúa - thủy
sản (tôm - lúa vùng nước mặn lợ ven biển và lúa - cá/tôm vùng nước ngọt) lên
240 - 300 ngàn héc-ta. Đất trồng cây lâu năm tăng lên 400 - 450 ngàn héc-ta,
trong đó diện tích cây ăn quả khoảng 300 ngàn héc-ta. Đất lâm nghiệp tăng lên
khoảng 330 ngàn héc-ta, bao gồm rừng sản xuất 146 ngàn héc-ta, rừng phòng hộ 88
ngàn héc-ta và rừng đặc dụng 96 ngàn héc-ta. Đất nuôi trồng thủy sản tăng lên
542 ngàn héc-ta, trong đó diện tích nuôi nước mặn, lợ 507 ngàn héc-ta, nước ngọt
35 ngàn héc-ta. Đất muối sản xuất giảm còn 4,6 - 4,8 ngàn héc-ta, nâng diện
tích sản xuất muối theo công nghệ tiên tiến chiếm 60 - 70%”.
Hạn mặn vừa qua ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp. Ảnh: S. Lý
TS. Nguyễn Trọng Uyên lý giải: Chuyển đất lúa kém hiệu quả
sang cây trồng khác có hiệu quả cao hơn và sử dụng ít nước hơn; tăng diện tích
luân canh lúa - màu ở vụ Xuân Hè để tránh hạn mặn. Áp dụng đồng bộ các biện
pháp thâm canh tiên tiến, tăng tỷ lệ diện tích đất sử dụng lúa xác nhận hoặc
tương đương lên trên 80%. Tăng diện tích đất trồng màu trên đất lúa, nhất là vụ
Xuân Hè và Hè Thu. Năm 2020, diện tích đất trồng dừa khoảng 120 - 130 ngàn
héc-ta và sản lượng đạt 1 triệu tấn; tập trung cải tạo vườn tạp và vườn dừa già
cỗi, trồng thay thế bằng các giống mới có năng suất cao, nhân rộng các mô hình
trồng xen, áp dụng quy trình kỹ thuật thâm canh thích hợp… Kèm theo đó là các
giải pháp về quy hoạch, tổ chức sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, khoa học công nghệ,
đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, đầu tư hạ tầng, vốn.
Quan tâm đến giải
pháp nạo Vét kênh rạch
PGS.TS Trịnh Công Vấn - Viện trưởng Viện Đổi mới công nghệ
thủy lợi Mekong quan tâm đến giải pháp nạo vét kênh rạch, sử dụng mô hình “Ngân
hàng đất” và chống vi phạm phạm vi bảo vệ công trình thủy lợi vùng ĐBSCL. Theo
đó, nước trong hệ thống sông tại ĐBSCL mang nhiều phù sa nên mức độ bồi lắng
khá cao, đặc biệt kênh rạch khu vực ven biển và vùng giáp nước cứ 2 - 3 năm cần
thiết phải được nạo vét. Nạo vét để duy trì năng lực các kênh tưới hoặc thoát
lũ, đồng thời đảm bảo an toàn giao thông thủy. Tuy vậy, công tác nạo vét kênh rạch
gặp không ít khó khăn do công nghệ và thiết bị nạo vét lạc hậu, các cơ chế và
chính sách chưa tạo động lực phát triển nạo vét một cách bền vững. Một số nơi,
nạo vét không có chỗ trữ để chảy ra kênh, rạch lân cận, Nhà nước lại phải đầu
tư kinh phí nạo vét kênh này. “Mô hình “Ngân hàng đất” khác với quá trình nạo
vét truyền thống: nạo vét truyền thống chỉ bao gồm nạo vét + vận chuyển + thải
đất ra “bãi thải” và không tiếp tục quản lý khai thác vật liệu thải. Còn “Ngân
hàng đất”, đất thải tiếp tục được quản lý để tái chế sử dụng bởi nhà đầu tư cho
“Ngân hàng đất”. Tư nhân có thể đầu tư toàn bộ dự án “Ngân hàng đất” trong
khuôn khổ quy định của Nhà nước, bởi đất thải sau khi xử lý sẽ bán và có sinh lợi”
- PGS.TS Trịnh Công Vấn đưa ra giải pháp.
PGS.TS Trịnh Công Vấn còn đề cập đến tình trạng vi phạm bảo
vệ công trình thủy lợi, gây cản trở dòng chảy (chà, nò, lú, đáy), xây dựng nhà
tạm, chuồng trại, trồng cây lâu năm, đổ rác thải, chất thải, xả nước thải vào
công trình thủy lợi và tình trạng khai thác đất, cát khu vực lòng sông, bãi
sông không đúng quy định. Để giải quyết tình trạng này, cần quan tâm tuyên truyền,
phổ biến văn bản pháp luật, nâng cao nhận thức người dân; thường xuyên kiểm tra
và xử lý nghiêm các trường hợp cố tình vi phạm. Nhiều đại biểu thống nhất cao với
đề xuất, biến kênh rạch, mương vườn, ao hồ thành nơi trữ nước ngọt vào thời điểm
hạn mặn.
Giám sát hoạt động
khai thác, sử dụng để bảo vệ tài nguyên nước
Theo bà Nguyễn Thu Phương - Cục Quản lý tài nguyên nước,
Bộ Tài nguyên và Môi trường, để giải quyết các vấn đề thách thức ở ĐBSCL hiện
nay, cần phải có các giải pháp đồng bộ không chỉ trong nước mà còn cho cả 6 quốc
gia có chung dòng sông Mekong. Thành lập Ủy ban lưu vực sông Cửu Long để tăng
cường công tác điều phối, giám sát hoạt động khai thác, sử dụng để bảo vệ tài
nguyên nước, phòng, chống tác hại do nước gây ra trên đồng bằng tiến đến giải
quyết hài hòa, có hiệu quả, bền vững các vấn đề tài nguyên nước giữa các bên
liên quan, giữa thượng lưu, hạ lưu và giữa khai thác với bảo vệ. Rà soát, điều
chỉnh, bổ sung quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội trên cơ sở khả
năng thực tế của nguồn nước và những dự báo về biến động nguồn nước, xâm nhập mặn
do tác động của BĐKH - nước biển dâng. Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng cho
ĐBSCL phải được đặt trong mối quan hệ tổng thể chung toàn vùng, liên vùng, có sự
phân kỳ, xác định mức độ ưu tiên dựa trên nhu cầu thực tiễn. Tuyên truyền, hướng
dẫn người dân thực hiện các biện pháp sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả, nhất là
trong tưới tiêu, chống lãng phí nguồn nước.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hoàng
Văn Thắng cho rằng, hội thảo đã đưa ra thông điệp hạn mặn đang là thách thức lớn,
đặt ra nhiều lo ngại. Vấn đề đặt ra vẫn là nâng cao nhận thức của các cấp, các
ngành và nhân dân về thích ứng với BĐKH. Từ Trung ương đến địa phương cần rà
soát thể chế đảm bảo phù hợp với yêu cầu đặt ra. Khắc phục tình trạng khai thác
quá mức tài nguyên thiên nhiên; sự cần thiết phải sản xuất theo hướng nâng cao
chuỗi giá trị gia tăng và hướng đến bền vững; phục hồi rừng ngập mặn, bảo vệ
kênh rạch, bờ sông, cửa sông ven biển; đổi mới mô hình tăng trưởng; nâng cao hiệu
quả dự báo. Quốc hội, Chính phủ, các nhà khoa học, viện, trường, kể cả việc gắn
kết với cộng đồng quốc tế để có giải pháp khả thi trong kiểm soát mặn, trữ nước
ngọt phục vụ sản xuất và dân sinh cho ĐBSCL phát triển thịnh vượng và bền vững.