Dòng Hàm Luông chảy mãi trong thơ

04/02/2021 - 20:52

BDK - Trong một lần về thăm Bến Tre, nhà thơ Trúc Thông có nhã ý mong muốn được xuôi theo dòng Hàm Luông trên chiếc ghe nhỏ như là một trải nghiệm trong lần đầu tiên đến với xứ Dừa, bởi danh hiệu “Cỡi sóng Hàm Luông, nhấn chìm hạm Mỹ” của đại đội đặc công thủy của tỉnh đã nổi tiếng cả nước.

Dòng sông Hàm Luông buổi hoàng hôn. Ảnh: N. Minh

Với gần 400 bài thơ trong cuộc thi Thơ và Bút ký văn học tỉnh năm 2019 - 2020, hai từ “Hàm Luông” xuất hiện với tần suất khá cao hoặc ẩn hiện đâu đó trong các tứ thơ so với các địa danh khác quả là một ngạc nhiên thú vị. Mỗi người đều có dòng sông riêng mình, cùng với sự đa dạng của phong cách, thi pháp các tác giả đã hòa mạch thơ của mình vào dòng chảy của sông Hàm Luông, góp phần làm phong phú thêm chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Qua đó, nâng cao chất lượng của các tác phẩm dự thi cũng như thành công của cuộc thi.

Những dòng sông thường làm nhân chứng cho những đêm hò hẹn của đôi lứa. Chọn bờ sông Hàm Luông với những hàng dừa bạt ngàn “thương ai mà vẫy mãi” đúng là một khung cảnh lãng mạn. Hò hẹn với Bến Tre mà thề kết nghĩa bằng cách “bẻ cong sợi dừa” thì thật ý nghĩa:

“Hò hẹn nào níu bước chúng ta

Gã trai làng ngu ngơ giữa dòng châu thổ

Miệt Cửu Long bồng bềnh con sóng vỗ

Anh bẻ cong sợi dừa kết nghĩa nhớ thương em!

Cái tím bà ba còn chung tình giữa Hàm Luông lắng đọng”.

(Hò hẹn Bến Tre - Trần Đức Tín)

Nghe vọng cổ thường buồn mà nghe trên sông càng buồn hơn. Có lẽ ca vọng cổ phù hợp với những kiếp mưu sinh của nghề hạ bạc. “Xuống xề” khi “thả trôi dòng” nghe da diết biết bao! Ai đã từng nghe các cô gái Huế “dạ thưa” bên bờ Hương Giang, cũng nên một lần đến với Hàm Luông:

“Em thả trôi dòng câu vọng cổ

Ta hớp ngụm đầu dạ tái tê

Hớp đôi ngụm nữa lưng chừng khóc

Để vỡ oà ra giữa đam mê...

Vô tình ngọn gió len đầu võng

Chở về câu vọng cổ ban trưa

Mắt ta nhắm lại, hồn ngây ngất

Nghe lời ai hát chữ: Dạ, thưa!

(Nghe câu vọng cổ bên bờ

Hàm Luông - Lê Thiện)

Đi đâu rồi cũng trở về sông. “Anh qua bên Minh, em về bên Bảo”, mà Hàm Luông nằm giữa đôi bờ Minh - Bảo nên phải về sông. Có nhiều lối về sông nhưng tại sao phải qua “lối cũ”? Câu trả lời đơn giản là qua lối cũ để tìm về những kỷ niệm xưa nơi có bông lục bình trên sông Hàm Luông vừa trôi vừa... nhớ:

“Chiều vuốt Hàm Luông chạm râu đước râu gừa

Xuồng ai nhắc chiếc khăn rằn quấn khéo

Tâm tư vừa trôi vừa nhớ những mái chèo

Mỗi bông lục bình nở lại chiều Đồng Khởi tím”

(Qua lối cũ về sông -

Nguyễn Thanh Hải)

Hàm Luông là một địa danh đẹp. Tạp chí Văn nghệ của tỉnh mang tên Tạp chí Văn nghệ Hàm Luông. Trong những bài thơ gởi đến dự thi, có bài thơ đọc lên tưởng “Hàm Luông” là tên một người nên cứ đứng trên bờ mà gọi, mà thương, mà nhớ. Sông cứ chảy đi! Nghe thân thương như một lời chia tay. Khi nhìn trên bản đồ những nhánh sông hình rẽ quạt đổ ra biển nhưng mấy ai nghe được giọng đờn kìm từ dòng chảy Hàm Luông:

Đứng trên bờ

Gọi hai tiếng Hàm Luông

Sông đổ ra biển Đông nỗi niềm của mẹ

Sông cứ chảy đi

Tôi đứng trên bờ thương nhớ

Nhìn những nhánh đan hình rẻ quạt

Như trăm ngón tay vuốt hạt phù sa

So giọng đờn kìm...

(Hàm Luông -

Nguyễn Thánh Ngã)

Có một bài thơ ghi lại một mối tình đẹp trong chiến tranh của anh lính trẻ và cô quân y. Hình ảnh dòng sông trôi lững lờ dễ làm ta liên tưởng đến những “thước phim” của cuộc đời chiếu qua trước mắt. Trong bóng hoàng hôn, trên bờ Hàm Luông, người thương binh già lặng nhìn dòng sông trôi để nhớ về một chuyến qua sông. Người còn, người mất, một chuyện tình se thắt đến mai sau:    

“Bên bờ người thương binh già trong bóng hoàng hôn

Nhìn dòng nước trôi vấn vương thời binh khói

Nửa thế kỷ đi qua cứ ngỡ như vừa mới

Mãi se thắt lòng từ một chuyến qua sông”

(Chiều bên sông Hàm Luông - Nguyễn Thảo Nguyên)

Qua sông là đã tới nhà. Thật ra đó là nhà của một lão nhà văn với tiếng chim chìa vôi ríu ran kể chuyện “đi chỗ khác chơi!” bên con rạch nhỏ. Đã qua sông Hàm Luông nhiều lần, nhưng lần này biết rằng không còn được nghe tiếng người “uyên thâm, nhỏ nhẹ” mà cảm thấy cuộc đời vô thường cùng sông rộng mênh mông:

“Hàm Luông gió gợn trắng bờ mải miết

Con sóng hôm nay đẹp lạ ngàn lần

Nước sông Hàm Luông da diết

Gọi người về tìm vị ngọt Bến Tre

Rửa lòng ta đắng ngắt...

Hàm Luông buộc, thả một dòng

Hồi quy mấy chuyến mà không tới bờ!”

(Sóng Hàm Luông -

Trần Thế Vinh)

“Lục bình chiều ấy toàn bông đỏ” là một câu thơ quá ám ảnh. Hàm Luông mang trong lòng mình một niềm vui thì cũng đan xen vào đó bao nỗi niềm. Có nỗi xốn xang nào hơn sự mất mát, hy sinh của người thân yêu:

“Về úp mặt vào sông hỏi vầng trăng mười sáu

Dầm mình dưới đáy bao năm

Có gặp người xưa ôm súng

Giữ quê ngã xuống đêm rằm

Đừng trách nỗi buồn sao cũ rích

Khi Hàm Luông còn lưu giữ bóng xuồng qua

Lục bình chiều ấy toàn bông đỏ

Mẹ lao xuống dòng vạch nước tìm cha”

(Đừng trách sao nỗi buồn cũ rích - Trần Ngọc Hòa)

Có nhiều lý do phải bỏ sông mà đi để thành người xa xứ. Những người con xa xứ, dù xa mấy, dù thành đạt đến đâu cũng có lúc trở về bên bờ sông quê hương nương bóng dừa xanh. Dòng Hàm Luông vẫn chảy êm đềm, mang vị ngọt lời ru của mẹ, vị mặn mồ hôi của cha:

“Sông vẫn ngọt vị phù sa mình nhỉ

Dòng Hàm Luông êm đềm chảy như là

Tình cha mẹ dành cho con bền bỉ

Thơm - ngọt - lành như ong ủ mật hoa”

(Mình về nương bóng dừa xanh - Đoàn Thị Diễm Thuyên)

Cái tứ “di chúc Hàm Luông” gửi gia tài là những hạt phù sa cho hậu thế là một tứ thơ độc đáo. Một thông điệp rất rõ ràng về tưởng nhớ công lao của tiền nhân thời mở cõi đất phương Nam, trong đó có Bến Tre. Hãy nhớ rằng người xưa khai hoang lập ấp từ những chắt chiu “gia tài phù sa” nhỏ nhoi ấy để cho Bến Tre hôm nay:

“Phù sa gia tài Hàm Luông bao đời gìn giữ

Quê hương và tôi niềm tin sông gửi trọn

Cánh buồm xưa vươn cao khát vọng

Phương Nam dừng cánh thiên di

Tôi đi dọc cù lao nhặt lên từng câu hò điệu lý

Ru hương linh cha ông giàu trượng nghĩa Vân Tiên

Trĩu nặng ân tình hạt phù sa thừa kế

Giữ bên lòng như lớp chữ gói chặt tứ thơ vàng”

(Di chúc Hàm Luông - Phạm Bội Anh Thuyên)

Sông muôn đời vẫn âm thầm chảy theo thời gian và luôn mang trong mình những hạt phù sa nặng nghĩa nặng tình, có thủy có chung. Xin được khép lại bài viết này bằng hai khổ thơ trong bài “Nghe lại tiếng xưa” với lời đề từ “Tưởng nhớ cô Ba”:

Buông câu rặng bần hoa trắng

Ngắm dừa chảy tóc đưa duyên

Trăng lên ngân bài vọng cổ

Tạo nguồn đuốc rực đời sau

Ta nghe quê nhà đang gọi

Vươn lên thoát bỏ kiếp nghèo

Hàm Luông muôn đời sóng bạc

Làm người ơn nghĩa phân minh”

(Nghe lại tiếng xưa - Đặng Thuần Phong).

Nguyễn Võ Khang Hạ

Chia sẻ bài viết

BÌNH LUẬN