Chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và xử lý nghiêm đảng viên vi phạm

03/01/2023 - 15:43

BDK - Phát biểu tại Hội nghị tổng kết công tác kiểm tra (KT) của Đảng ngày 29-7-1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Muốn hoàn thành tốt mọi việc, thì toàn thể đảng viên và mỗi cán bộ phải cấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chính sách của Đảng. Và muốn như vậy, thì các cấp ủy đảng phải tăng cường công tác KT. Vì KT có tác dụng thúc đẩy và giáo dục đảng viên, cán bộ làm tròn nhiệm vụ đối với Đảng, đối với Nhà nước, làm gương mẫu tốt cho nhân dân. Do đó mà góp phần vào việc củng cố Đảng về tư tưởng và về tổ chức”.

Bí thư Tỉnh ủy Lê Đức Thọ (thứ ba, phải qua) chụp ảnh lưu niệm với Ban lãnh đạo Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy nhân kỷ niệm 74 năm Ngày truyền thống ngành Kiểm tra Đảng (16-10-1948 - 16-10-2022). Ảnh: Hữu Hiệp

9 tồn tại, hạn chế cần khắc phục

Thực tiễn cách mạng nước ta đã chứng minh công tác KT, giám sát (GS) là một nội dung quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, vừa là chức năng, vừa là phương thức lãnh đạo quan trọng của Đảng.

Một vấn đề đang đặt ra hiện nay mà các cấp ủy Đảng, những người làm công tác KT Đảng đang hết sức quan tâm là tỷ lệ đảng viên vi phạm đến mức phải xử lý kỷ luật có chiều hướng gia tăng. Một điều đáng quan tâm là rất nhiều trường hợp vi phạm đã lâu mới bị xem xét kỷ luật do chậm phát hiện hoặc xử lý không nghiêm.

Tình hình trên đòi hỏi cấp ủy, Ủy ban Kiểm tra (UBKT) các cấp cần phân tích thấu đáo những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân để đề ra những nhiệm vụ, giải pháp sát hợp nhằm chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và xử lý nghiêm đảng viên vi phạm.

Có thể khái quát những tồn tại, hạn chế cần quan tâm hiện nay là:

Thứ nhất, nhiều cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, phẩm chất; ý thức chấp hành kỷ luật chưa nghiêm; ý thức tự phê bình, tự giác nhận khuyết điểm, vi phạm rất hạn chế.

Thứ hai, công tác quản lý cán bộ, đảng viên; giám sát thường xuyên, theo dõi, nắm chắc tình hình địa bàn, lĩnh vực, hoạt động của cấp ủy, người đứng đầu chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra.

Thứ ba, công tác nghiên cứu, dự báo chưa theo kịp sự phát triển của xã hội cũng như tình hình vi phạm kỷ cương trong điều kiện mới. Từ đó, chậm đề ra các chủ trương, giải pháp căn cơ, đồng bộ trong công tác KT, GS, kỷ luật đảng nên chưa đủ sức ngăn chặn, phòng ngừa khuyết điểm, sai phạm của cán bộ, đảng viên, dẫn đến sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm kỷ luật.

Thứ tư, tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình của nhiều cấp ủy, tổ chức đảng chưa cao, còn nể nang, né tránh, thậm chí bao che cho cán bộ, đảng viên vi phạm. Công tác tự KT, GS của nhiều tổ chức đảng còn thiếu thường xuyên.

Thứ năm, UBKT cấp ủy các cấp chưa chủ động đề xuất KT khi có dấu hiệu vi phạm, vẫn còn tình trạng thụ động, trông chờ sự chỉ đạo của cấp trên.

Thứ sáu, phương pháp KT, GS của Đảng vẫn chưa theo kịp thực tiễn nên còn khó khăn khi xem xét, đánh giá, kết luận các vụ, việc phức tạp, các hành vi mới phát sinh.

Thứ bảy, các quy định của Đảng về cơ chế kiểm soát quyền lực; công tác KT, GS việc thực thi quyền lực của người có chức vụ, quyền hạn, nhất là người đứng đầu chưa được quan tâm đúng mức.

Thứ tám, trên bình diện quốc gia, tình trạng tham nhũng, tiêu cực, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống vẫn diễn biến phức tạp. Các loại tội phạm, nhất là tội phạm kinh tế, tham nhũng có chiều hướng gia tăng, có sự cấu kết, bao che, tiếp tay của một bộ phận cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất.

Thứ chín, số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ KT của Đảng chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Năng lực, trình độ, bản lĩnh, kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ KT còn hạn chế, trong khi các hành vi vi phạm nguyên tắc, quy định của Đảng ngày càng tinh vi, phức tạp.

Đổi mới, nâng chất công tác kiểm tra, giám sát

Quán triệt quan điểm KT, GS là một phương thức lãnh đạo cực kỳ quan trọng của Đảng, trong bối cảnh hiện nay, việc đổi mới, tăng cường, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác KT, GS của Đảng là tất yếu, quan trọng. Để chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và xử lý nghiêm ĐV vi phạm kỷ luật nhằm giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật của Đảng, hướng tới cần tập trung thực hiện đồng bộ, toàn diện các nhiệm vụ, giải pháp sau:

Một là, nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Tập trung tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn; đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Nêu cao tính gương mẫu, tự giác của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt, người đứng đầu đi liền với phát huy dân chủ, nêu cao ý thức trách nhiệm của đảng viên.

Hai là, thực hiện đầy đủ các nội dung của công tác quản lý đảng viên; theo dõi và nắm chắc về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, nhiệm vụ cụ thể được phân công, mối quan hệ trong, ngoài cơ quan, nhất là diễn biến tư tưởng, ý thức chấp hành chế độ sinh hoạt, điều kiện, hoàn cảnh gia đình… Qua đó, kịp thời phát hiện những biểu hiện lệch lạc, sai sót để góp ý sửa chữa, uốn nắn, chấn chỉnh; thường xuyên rà soát, sàng lọc, đưa những ĐV không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng theo quy định.

Ba là, cấp ủy, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt, cấp ủy viên và cán bộ thuộc  diện cấp ủy quản lý phải thường xuyên tự KT, GS, kịp thời phát hiện những hạn chế, khuyết điểm của tổ chức, đảng viên và tự soi chính bản thân mình để tự sửa.

Bốn là, cấp ủy, UBKT các cấp phải chủ động phát hiện sớm đảng viên có khuyết điểm, vi phạm để chủ động phòng ngừa vi phạm từ sớm, từ xa, không để sai phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn, kéo dài và lan rộng. Quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo, xem xét, xử lý đối với đảng viên vi phạm. Khi đã phát hiện dấu hiệu vi phạm phải nhanh chóng KT, kết luận rõ ràng, minh bạch; xử lý công tâm, khách quan; kỷ luật nghiêm minh, thuyết phục.

Năm là, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng về công tác KT, GS, kỷ luật đảng thông qua việc tăng cường, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác KT, GS. Tăng cường KT, GS trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác chỉ đạo, điều hành, kịp thời ngăn chặn vi phạm, cài cắm “lợi ích nhóm”, lợi ích cục bộ. Mở rộng giám sát trên tất cả các địa bàn, lĩnh vực; chú trọng vào những nơi nội bộ có biểu hiện mất đoàn kết, dư luận xã hội quan tâm. Chủ động KT khi có dấu hiệu vi phạm, tập trung vào những lĩnh vực, địa bàn, vị trí công tác dễ xảy ra tham nhũng, tiêu cực.

Sáu là, cấp ủy, UBKT các cấp phải đặc biệt quan tâm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ KT, đổi mới công tác tuyển chọn, quy hoạch, bồi dưỡng, đào tạo... để xây dựng đội ngũ cán bộ KT liêm khiết, công minh, chính trực, có bản lĩnh chính trị, sâu sát, thận trọng và ứng xử có văn hóa.

Bảy là, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, nhất là người đứng đầu cấp ủy về công tác KT, GS. Công tác KT, GS phải được tiến hành một cách thường xuyên và đồng bộ từ trên xuống dưới. Phải coi công tác KT, GS như một bộ phận cấu thành tất yếu của quá trình lãnh đạo và từng bước chuyển hóa công tác KT, GS thành tự KT, GS như một hoạt động tự thân đối với mỗi tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên. Bảo đảm tính khách quan, quán triệt tinh thần tự phê bình và phê bình trong công tác KT, GS.

Hải Châu

Chia sẻ bài viết

BÌNH LUẬN