Thấy tôi lấy hộp thuốc Xuân Lộc ra quấn, chú Nguyễn Phượng thoáng ngạc nhiên, vội đứng lên rời bàn nước đi về phía tủ thờ. Lục đục một lúc, chú quay lại với gói thuốc trên tay trao cho tôi. Tặng chú gói thuốc hút lấy thảo với qua. Tôi mừng rỡ khi bắt gặp đúng hình ảnh của những người dân cồn chân chất, son sắt, thủy chung gần 40 năm về trước. Và tôi nói mà không sợ ai chê cười rằng tôi mừng còn hơn người bắt được của hoạnh tài. Mừng muốn quên mình, khi biết chú là nhân vật còn hơn cả những người tôi đang định đi tìm cùng với những ngôi cồn mới nổi. Không mừng sao được, khi chính những người chiến sĩ biên phòng vẫn đinh ninh gia đình chú hiện còn đang ở cồn Mười Phượng kia mà. Không vậy thì hà cớ gì anh em lại nhiệt tình ca-nô ca-dét định giúp mình ra đó.
Mừng quá đi là mừng! Nguyễn Phượng đang trước mặt tôi đây là Mười Phượng, và vợ chồng con cái Nguyễn Phượng đã từng dựng nhà sinh sống trên chính ngôi cồn mang tên mình - cồn Mười Phượng! Còn bởi Nguyễn Phượng cũng lại chính là người chiến sĩ giao liên, chiến sĩ địa phương rồi sau đó là đoàn tàu không số, Đoàn 962. Ông là xạ thủ khẩu trung liên Mỹ đã bắn hạ chiếc máy bay trinh sát L-19 tại trận cồn Lớn - Khâu Băng trong chiến dịch càn quét qui mô lớn Phượng Hoàng TG1 vào đầu năm 1964. Xác tên đại tá Lee, tùy viên quân sự của quân đội hoàng gia Anh trong lực lượng đồng minh Mỹ đã bị biển Thạnh Phong giấu biệt, phải mất mấy ngày sau người ta mới tìm thấy bên Mỹ Long - Trà Vinh! Vậy mà…
Hay công trạng của ông chỉ xứng đáng được hưởng với chừng ấy đãi ngộ hàng tháng của người thương binh 3/4? Hay như có người nói bữa đó nhiều quân quá nên không rõ “quân nào” bắn rơi chiếc máy bay? Hay bây giờ công việc lu bu quá nên người ta không kịp nhớ? Hay như ông trưởng ấp của tôi để cho tiện mỗi khi dân kêu bị trộm chuối, trộm dừa, thường trút hắt xuống nói là do… mặt trái cơ chế thị trường? Hay ông được vinh danh bằng ngôi cồn như vậy đã quá ưu ái rồi. Mài giũa hơn ông bao nhiêu lần nữa kia chưa chắc được ghi tên vào một con đường, còn ông không lẽ… tự nhiên được đủ thứ? Tôi không dám tin vào bất kỳ giả thiết nào được đặt ra, chỉ hy vọng đây là sai sót không đáng có. Nhưng… báo công đâu? Các loại bằng chứng đâu?... Khoan hãy tin Mười Phượng.
Là lính, giặc tới, chú chỉ có đánh và biết mình đánh trúng hay trật chớ làm sao biết tụi nó đặt cho trận đó biệt hiệu gì: Phượng Hoàng hay gà Mỹ, vịt Tàu, Sóng Thần hay sóng lưỡi búa…? Tan giặc rồi, chú chỉ biết về lo cày cuốc thôi... Còn chữ nghĩa thì…
Thôi chết rồi!... Nhưng không sao. Hỏi là hỏi vậy thôi, chớ để thấu hiểu những người chăn trâu, cắt cỏ trên đất nước này xưa giờ nào có khó gì… “Tứ thời cái áo tứ thân. Hỡi cô cắt cỏ con thần Tản Viên… Đền thiêng hóa thánh lạy thờ. Hỡi cô cắt cỏ bây giờ ở đâu?” (Đỗ Nam Cao). Đừng hỏi trời, xa lắm. Hỏi đất, hỏi nước, hỏi lính, hỏi dân đi, sẽ rõ hết!
Thật ra, trên đời này, có không cái gì “tự nhiên” mà có đâu. Không nguyên cớ này cũng duyên do khác thôi. Nhớ hồi nãy đứng ở cồn Lớn, nhìn xuống con đường đất lông chông, ngoằn ngoèo dẫn qua cồn Dài, tôi đã lấy làm e ngại. Lại e ngại! Ngoài sự cũ mới, cao thấp ra, cồn nào chắc cũng giống cồn nào… cũng rừng, cũng giồng y như nhau vậy thôi... Trời ơi! Ca-nô không đi được, lội sình mày sợ; bây giờ đi xe, mày định bẻ chĩa nữa thì còn ra cái thể thống gì! Hồi sáng, mày nói sao, có phải nói ráng tập có gì dùng nấy không? Trời mù quá nên khó định, sực nhớ tôi liền móc cái di động liếc qua, thấy mới hơn 14 giờ. Tôi động viên mình rồi nhanh tay vặn ga cho con Dream phóng xuống…
Cồn Dài vắng hoe! Chỉ xa xa thấp thoáng vài ba nếp nhà, còn đìu hiu hơn cả những nơi tôi đã từng bám trường, bám lớp trước đây. Muốn hỏi điều gì không hề dễ. Lẩm nhẩm câu thơ cổ bỗng cám cảnh mình hiện dám còn “dục đoạn hồn” hơn cả tay “hành nhân” nào đó bên Tàu gấp mấy lần! “Tá vấn tửu gia hà xứ hữu. Mục đồng dao chỉ Hạnh Hoa thôn”. Ở xứ đó còn có xóm, có thôn, có nhà bán rượu, còn có đứa trẻ chăn trâu chỉ đường cho khách đi mua, dù không đích xác, dù chỉ hững hờ bằng ngọn roi tre ấm ớ. Đàng này mình lại đang giữa nơi mông quạnh, định tìm, định mua cái gì đây? À, phải rồi… Mình đang trong chuyến đi tới những ngôi cồn mới nổi và muốn gặp gỡ những con người đang cùng hít thở, bồi bổ, xây dựng cho nó. Vậy thôi, chớ không mua bán gì cả. Dù chưa trọn vẹn nhưng được tới đây, ít nhiều cũng có chút an ủi vì đã được đập chung một nhịp với tim đất, tim rừng, được bước những bước chân của mình trên mặt biển năm xưa.
Nhác thấy bà lão đang đánh lá trong vườn mía, tôi mừng rỡ lật đật dừng xe bước vào, định hỏi cho tỏ đường đi nước bước, nhằm để dành cho sau này:
- Dì ơi, vui lòng cho cháu hỏi thăm… Có phải để ra cồn Mười Phượng, mình phải gửi xe ở nhà ven rừng kia không?
- Chẳng hay cậu là ai, ở đâu mà ra cồn Mười Phượng làm gì hay kiếm ai ngoải? - bà dừng tay, ngó lại tôi, hỏi một lèo.
- Dạ cháu làm linh tinh ở thành phố Bến Tre, mới xuống đây mấy bữa rày, định lúc nào đó sẽ ra chơi cho biết, nhân thể làm quen và thăm gia đình chú Mười!
- Trời ơi, ổng đâu còn ở ngoải nữa, về trong này nẳm nay rồi, tui là vợ ổng nè! - bà cười vui nói tiếp.
Bà lắc lư, khập khiễng đi trước, tôi trở ngược lại dắt xe. Nhìn dáng bà, tôi lại liên tưởng tới vợ nhà. Mưa gió hổm rày không biết có bò lên trên gác phòng thủ kỹ lại mấy cánh cửa sổ bị nắng làm cho vênh vẹo được không… Không hiểu sao bây giờ người ta hay “đau nhức chân tay, tê mỏi vai gáy” nhiều vậy. Và uống toàn những thứ được ghi rõ ràng “X. không phải thuốc và không có công dụng thay thế thuốc chữa bệnh”. Giới thiệu như vuột chạy thoát hiểm, la làng khơi khơi vậy thôi mà bá tánh xúm nhau đổ tiền ra không thương tiếc vác về xơi. Quái lạ! Bệnh gì? Là tuổi tác đó thôi, tre không tàn lấy chỗ đâu cho măng nó mọc.
- Ổng đương ở trong nhà á, ổng ít đi đây đi kia lắm, có muốn gì thì cậy đám con cháu nó làm giùm không hà - bà trả lời tôi từ phía trước.
Ngoài 70 rồi, đành thúc thủ. Chớ có khi nào chú không đi trước về sau. Nhớ lại hai mươi năm trước, vợ chồng cùng nhau đi rừng kiếm sống. Chiều lại, trước khi về, chú thím đang gom góp đồ lề giặt rửa trên một luồng lạch ven cồn bỗng phát hiện sóng nước đang dợn lên lanh chanh, lập chập phía bên ngoài. Cả hai cùng lội ra mới hay nước chỉ ngập hơi quá gối, cùng lúc bỗng có cây dừa không biết từ đâu trốc gốc vừa trôi tới. Trời cho chăng? Họ mừng quýnh lên chặt những tàu dừa, lặn hụp cắm mốc vòng quanh “xác lập chủ quyền”. Lạy trời ngó xuống để mai này có thêm khoai, thêm củ cho bầy con năm đứa. Người có thể quên chớ biển đâu khi nào. Ngày đêm, mưa nắng gì, nó cũng cần cù bồi đắp cho rộng lớn và cao dần lên. Thỉnh thoảng quay lại nhìn thấy khoảnh đất ngày một phổng phao, vạm vỡ, chú thím chỉ còn thiếu điều sụp lạy trước duyên cơ linh diệu của thần thánh, ông bà. Liệu có ai trải lòng mình ra vui buồn trước biển chìm biển nổi, đất lở đất bồi như những người như chú? Rồi chòi được dựng lên, nhà được dựng lên. Rồi người tiếp người nối bước theo ra cắm dè, cắm cọc, đắp bờ, đắp cõi. Nào là Dứa Anh, Vốn, Sĩ, Năm Ro rồi lần hồi Út Giáp, Chín Dư, Út Hạnh cũng ra theo.
- Tụi nó trẻ khỏe, giờ đứa nào cũng nhiều giồng hơn chú! Cháu khui gói thuốc hút đi .
Tôi đứng lên khẽ cầm gói thuốc gửi lại và không quên nói lời cảm ơn chú đã có lòng. Không hiểu sao chừng năm rưỡi nay, tôi bỗng ưng quấn “mùi dân tộc” thứ thiệt Xuân Lộc này. Thuốc lậu làng trên xóm dưới bây giờ thiếu gì, bắt hoài có hết đâu! Tại không đi và ít tiếp xúc nên chú không rõ cứ tưởng hễ có đầu lọc, tròn trịa, thẳng thớm là sang. Sang cả gì đó chú ơi, giả không! Chú cứ bám cồn riết. Thím lại nhớ về cơn bão số 9 hồi năm 2007 bất ngờ tràn về…
- Ngó ra biển, thấy sóng dựng cao lút rùng rền như giặc dậy, sau hè nước dâng vùn vụt. Trời tự nhiên tối hù hù, tui hối ổng hổng hay gì kịp, thôi bỏ bà nó hết đi, để theo mẹ con tui chạy vô, vậy mà tiếc đống khoai mới đào, ổng có chịu đâu… Nào giữ được cái gì cậu ơi! Nước minh mông tới sẩm tối, thằng Ba lấy xuồng nhắm hướng ngọn rừng chèo ra kiếm kêu hú cho đã rồi nài nỉ rước ổng mới chịu vô. Coi vậy đó, chịu đời nổi hôn…
Mấy ngày sau, người đi rừng, đi đánh cá thấy khoai nổi như mù u rụng mới hốt hoảng tri hô có ghe khoai ai chìm. Ghe khoai nào mà chìm! Tĩnh tâm ngó kỹ lại, mới hay đó là củ-nước-mắt của vợ chồng, con cái Mười Phượng nhỏ dọc theo bãi bờ sương nắng!
Sau cơn bão, những cư dân mới ở cồn này lần lượt rút, lui về hậu cứ cồn Dài. Thôi, ráng chờ cho nó cao lên đã. Giờ người ta chỉ dựng tạm những căn chòi nhỏ để thỉnh thoảng ra vô có chỗ trú mưa, tránh nắng. Năm tháng ngày một chồng lên, sau cùng chú cũng rút.
Niềm vui thiếu san sẻ là niềm vui chưa trọn vẹn. Nhưng san sẻ với ai bây giờ? Tôi vội gọi về đồn cho anh Nguyễn Văn Cạnh thông báo tình tình để anh rõ và không quên nhắc mai mốt trời êm ráng giúp cho một chuyến ra cồn Mười Phượng, cồn Đâm. Dẫu sao, tôi vẫn chưa được đặt chân mình lên đó. Hay tin, anh lộ rõ sự vui mừng, nói sẽ sẵn sàng thôi, nhưng có thể hơi lâu, vì có đám bão mẹ, bão con đang múa phù phù trên biển Đông.
Trước khi tiễn tôi ra về, thím ngập ngừng rồi nói một thôi một hồi:
- Cậu coi, tụi tui già rồi, còn sống được mấy năm nữa đâu, phải hôn cậu? Trước đây, có chú xưng là nhà gì gì tui quên rồi, mời ổng xuống xã “ vấn” cả buổi trời nhưng tới nay cũng chưa thấy chi. Cậu nói sao để được giúp cho cái nhà, thiệt tình vợ chồng, con cái tui đội ơn cậu không biết để đâu cho hết. Không phải là cái gì mà là danh dự cuối đời cho ông nhà tui, phải hôn cậu?
Lớp lớp mây đen vẫn vần vũ xây thành… Tôi đành từ chối lời mời cơm của ông bà, hẹn dịp khác. Đường xa lại vắng và lấy gì bảo đảm anh bạn gai tre liếng khỉ nào đó đang nằm buồn tay lại không chích cho một mũi! Tôi phải rời cồn Dài thôi. Giờ này, ở thành phố, chắc bạn tôi đang lụi hụi với công việc. Về việc đừng hay đề giá bao nhiêu trên cuốn Tạp chí Văn cho phù hợp với thị trường, nên hay không nên mở cho nó trang web chẳng hạn… Tôi kín đáo quan sát lại nếp nhà mọn của ông bà lần nữa. Ngôi nhà khó có thể nhỏ và đơn giản hơn. Không thấy treo gì trên vách lá như thường tình, kể cả những dấu hiệu của danh dự, thậm chí là kỷ niệm. Nguyễn Phượng nhìn qua tôi mỉm cười, tôi cũng cười.
Tôi cười cho công việc lâu nay của mình và sự ngộ nhận về quyền hạn của người đời đối với nó. Còn ông, ông cười cái tính hay nói của người vợ hiền hay ông mếu cho thân phận chìm nổi khác thường của nhân vật Ngô Tử Văn trong câu chuyện của Nguyễn Dữ mà hồi nãy tôi mới vừa kể cho ông nghe?