Anh Đàm Văn Hưng: Hành trình đến với chuỗi giá trị bưởi da xanh

17/08/2018 - 07:49

BDK - Anh từng đem bưởi da xanh đi khắp nơi “chào hàng”, thậm chí “cho ăn không”. Rồi chuyện xây dựng thương hiệu, bảo hộ sản phẩm và liên kết trong sản xuất… một mình anh tự nghĩ, tự làm cách đây cũng gần 15 năm rồi. Bây giờ, bưởi da xanh đã nổi tiếng, có chỉ dẫn địa lý hẳn hoi. Công anh lớn lắm. Chắc chắn “con đường” đi đến thành công như hôm nay, anh hẳn sẽ có nhiều chuyện để kể với tôi.

Nông dân tham quan quy trình sơ chế bưởi da xanh ở cơ sở Hương Miền Tây. Ảnh: H. Hiệp

Anh nhìn chầm chậm, rót và mời tôi tách trà, câu chuyện được anh kể “tự đáy lòng mình”, càng hấp dẫn tôi hơn…

Sinh kế với 1,6 triệu đồng

Anh Đàm Văn Hưng sinh năm 1963, quê ở xã Vang Quới Tây, huyện Bình Đại. Năm 1984, anh công tác tại Trường Quân sự Ba Vát, là một thợ máy cơ khí. 4 năm sau, khi rời quân ngũ, anh ở lại lập nghiệp và sống ở xã Tân Phú Tây (Mỏ Cày Bắc) khởi nghiệp từ một nhà máy chà lúa. Hai năm sau, anh “nhảy sang” đầu tư nhà máy nước đá, mà không chỉ làm một cái, anh còn liên kết, hùn vốn với đơn vị cũ mở đến 2 nhà máy. Thời buổi “quá độ” kinh tế thị trường với sự cạnh tranh khá khốc liệt giữa “cái mới” và “cái cũ”, công nghệ quyết định sự thành bại trong kinh doanh. Nhiều nhà máy nước đá quy mô cỡ lớn mọc lên khiến anh “thua” và phá sản, vỡ nợ gần 180 triệu đồng. “Tôi nhớ, thời điểm đó, lương cơ bản chỉ khoảng 200 - 300 ngàn đồng. Số tiền tôi nợ là rất lớn. Hai vợ chồng đến năn nỉ từng chủ nợ. Tôi hứa sẽ trả dần và người ta đã đồng ý. Ừ, lúc đó là vào năm 1997” - anh Hưng nhớ lại.

Trong trí nhớ, anh lúc nào cũng nghĩ mãi về trách nhiệm của mình rằng “nếu đời tôi trả không hết nợ, thì trước khi chết, tôi cũng di chúc để đời sau con tôi sẽ trả”. Đến năm 2000, gia đình anh có đến 5 miệng ăn, anh phải bươn chải đủ nghề để chạy gạo ăn hằng ngày và chờ cơ hội mới. Rồi trong một lần anh đi qua thị xã (TP. Bến Tre), quan sát thấy ở đây chưa có vựa cam nào, chủ yếu cam của tỉnh bà con phải chở sang Mỹ Tho bán. Trong khi đó, phong trào chuyển đổi cây trồng, vật nuôi ở nhiều địa phương đang được đẩy mạnh và người dân chuyển sang trồng cây có múi, nhất là cam. Một người có đầu óc làm ăn kinh tế như anh thì hẳn đây là cơ hội. Anh bàn với vợ về ý định mở vựa cam khi mà trong nhà không còn tài sản nào có giá trị. Anh bạo gan tìm đến người bạn “chí cốt” thời còn trong đơn vị để hỏi mượn 3 chỉ vàng làm vốn. Vựa cam Chín (9) Hưng ra đời. Song, do không thuận lợi nên chỉ trong vòng nửa tháng thì hết vốn. Lần nữa, anh tìm đến người bạn cũ và nhận ngay lời khuyên: “Nghỉ đi Hưng ơi, mới đây mà làm mất của tôi hết 3 chỉ vàng rồi còn non nước gì?!”. “Mày cứ đi mượn tiếp dùm tao 2 chỉ nữa. Tao hứa danh dự sẽ trả cho mày đúng 5 chỉ đàng hoàng” - anh Hưng nài nỉ. Cầm cự được một thời gian ngắn, anh mất luôn vốn vừa mượn. “Tết đến nơi, tôi chỉ còn vài ngàn đồng đủ mua gạo. Cả gia đình ăn cơm với cơm dừa khô kho”- anh Hưng bồi hồi.

Sau Tết, dù không còn đồng vốn nào, anh vẫn để bảng hiệu “Vựa cam 9 Hưng - mùng 6 khai trương”. Mùng 8 Tết, một chiếc xe lôi đạp dừng lại trước cửa nhà hỏi mua ve chai, anh ngậm ngụi đem hết mấy cái ống đồng, máy móc hồi còn đi làm thợ máy đem bán được 1,6 triệu đồng.

Với quyết tâm đi tìm thị trường tiêu thụ, không chờ khách đến như trong suy nghĩ của mình, anh ôm số tiền có được lên tận Sài Gòn thuê nhà trọ gần ngã tư An Sương để vừa đi bán cam dạo, vừa tìm kiếm thị trường. Ở nhà, vợ anh vẫn thu mua cam của bà con trong xã. Dù bán không được số lượng nhiều nhưng việc bán cam dạo đã giúp anh có được chút ít đồng lãi. Ở quê, sản lượng cam vợ anh thu mua ngày càng tăng. Anh đem lên Sài Gòn bán cả tuần mà chẳng hết. Cam vàng. Anh nghĩ nếu thế này thì lỗ thâm xương.

Từ khi tình cờ tiếp chuyện với một bác xe ôm về việc đem cam ra chợ đầu mối Cầu Muối bán, hàng ngày, từ khuya, anh đạp xe chở đầy cam vượt 20km mới đến chợ. Ở đây có rất nhiều vựa cam, mọi người sẵn sàng chia sẻ chỗ bán nhưng phải “ăn cò”, bạc 10 (tức là bán được 1 triệu đồng thì trả cho họ 100 ngàn đồng). Và anh đồng ý. Chỉ một đêm thôi, cam hút hàng và anh bán hết số cam dù đã vàng hoe. Cũng ở chợ này, anh học được một thứ, đó là cách đóng gói hàng hóa. “Cuộc đời tôi, đã bắt đầu từ 1,6 triệu đồng đó và tìm được thị trường tiêu thụ khá ổn định. Ở quê nhà, vợ tôi đẩy mạnh việc thu mua, từ vài trăm ký ban đầu lên 1 tấn, rồi vài tấn. Tiền lời từ bán cam, tôi dành dụm trả hết nợ nần và tích lũy vốn” - anh Hưng cho biết.

Ổn định được thị trường cam ở Sài Gòn, không lâu sau đó, anh đã mở rộng ra thị trường… tận Hà Nội. “Lúc đầu, tôi bỏ hàng lên xe đò để đi. Sau này, có vốn kha khá thì thuê hẳn một chiếc xe tải cỡ trung để tải hàng hóa - chủ yếu vẫn là cam” - anh Hưng cho biết.

Năm 2002, cây bưởi da xanh (BDX) được người nông dân trong tỉnh trồng nhiều, bởi chất lượng rất hoàn hảo và đặc biệt là màu da của nó: chín vẫn còn xanh.

Nhưng với anh Hưng, BDX còn nhiều ưu điểm hơn cả các loại trái cây khác là ruột có màu rất đẹp - đỏ hồng, bảo quản được lâu hơn. Với kinh nghiệm của người kinh doanh về trái cây, anh tính toán và tiên lượng rằng, nếu được người dân cả nước tin dùng thì khả năng xuất khẩu chỉ là thời gian. “Nhưng “câu chuyện này” chỉ mình tôi biết” - anh Hưng phấn khởi.

Trong những chuyến xe chở cam đi Sài Gòn, Hà Nội, anh đều mang theo vài chục ký BDX để gửi cho các chủ vựa bán, đôi khi anh cũng bán. Anh Hưng kể: “Ở Sài Gòn, người ta quen ăn bưởi 5 roi, Thanh Trà… ở Hà Nội cũng thế, người ta ăn bưởi Diễn, Phúc Trạch, Đoan Hùng. Đem BDX bán, họ chẳng chịu chú ý đến, mời họ chẳng mua. Mấy bà chủ vựa kêu trời, rồi bảo người ta chê bưởi còn xanh lét, kêu tôi đừng đem ra nữa”. “Tôi tức mình, chẻ bưởi mời từng người ăn miễn phí. Thế là tôi mất “cả chì lẫn chài”. Ăn riết rồi người ta quen, người ta khen bưởi này lạ, chín mà vỏ vẫn xanh, rất ngon. BDX thời điểm đó chỉ có giá 3 - 4 ngàn đồng/kg” - anh Hưng tươi cười thuật lại.

Thương hiệu và liên kết

Anh Đàm Văn Hưng được tôn vinh Nông dân Việt Nam xuất sắc tại Hà Nội, năm 2014 (mỗi tỉnh chỉ có 1 nông dân). Anh nhận được nhiều bằng khen của chính quyền và Hội Nông dân các cấp; nhận được Cúp vàng tại các hội chợ triển lãm các mặt hàng nông sản trong và ngoài nước.

Thị trường Hà Nội bắt đầu “hút” BDX. Để hàng hóa của mình được người tiêu dùng chú ý hơn, anh bắt đầu thay cách đóng gói bằng bội tre sang đóng thùng giấy cạc-tông, bên ngoài ghi rất rõ “Đặc sản Bến Tre - BDX”. Ngay lập tức, thương hiệu chiếm lĩnh và đứng chân được ở thị trường Hà Nội và bền vững với sản lượng tiêu thụ ngày càng tăng nhiều. Trong suy nghĩ của mình, anh cho rằng, nhãn hiệu ghi bên ngoài thùng giấy cạc-tông có gì đó chưa “bền vững”. Một mình trong góc quán cà phê ở thị xã, thoáng qua trong suy nghĩ, anh vội lấy bút và giấy ghi liền 3 chữ “Hương miền Tây”. Năm 2005, anh đi đăng ký bản quyền và bảo hộ nhãn hiệu, được Cục Sở hữu trí tuệ công nhận. “Thuyết trình trước Hội đồng, tôi chỉ nói ngắn gọn rằng, tôi muốn mang hương vị miền Tây đến với người tiêu dùng trong cả nước bằng nhiều loại trái cây khác chứ không riêng gì BDX” - anh Hưng nhớ lại. Logo anh cũng tự suy nghĩ và vẽ ra, rồi diễn giải trước Hội đồng nghiệm thu. Tất cả đều được chấp nhận.

Có thương hiệu trên thị trường hai miền Nam - Bắc, nhiều doanh nghiệp lớn trong và ngoài nước chú ý đến loại trái cây “Đặc sản Bến Tre - BDX” và họ tìm đến tận Cơ sở Hương miền Tây của anh. Năm 2007, Viện Cây ăn quả miền Nam mời anh dự Hội nghị “Làm thế nào để hàng nông sản Việt Nam hội nhập”. Tham dự hội nghị này, theo anh, đã mang lại cho anh nhiều điều quý báu về xây dựng vùng nguyên liệu, về liên kết sản xuất, về áp dụng công nghệ trong sản xuất và bảo quản sản phẩm sau thu hoạch. Anh tìm đến các câu lạc bộ, nhóm sở thích của nông dân (lúc này chưa có tổ hợp tác) để bàn chuyện “làm ăn” với họ. Người dân rất đồng tình. Rồi chủ trương của Đảng, Nhà nước đẩy mạnh việc thành lập hợp tác xã kiểu mới, anh mừng khấp khởi.

“Tôi tìm đến ngay Hội Nông dân các huyện, thành phố, nhất là những địa phương có diện tích trồng BDX nhiều. Tôi đem toàn bộ câu chuyện của mình với mong muốn làm ăn với người nông dân chân chính. Các anh rất đồng tình, Hội Nông dân tỉnh cũng rất quan tâm đến cơ sở của tôi, mạnh dạn hợp tác trong việc tiêu thụ hàng nông sản và xây dựng các mô hình sản xuất đạt chuẩn VietGAP, GlobalGAP tại xã Sơn Đông (TP. Bến Tre), xã Quới Sơn (Châu Thành), 2 tổ hợp tác ở TP. Mỹ Tho - Tiền Giang (anh đã hỗ trợ 3% giá thành cho các mặt hàng xuất khẩu và hỗ trợ kinh phí tái chứng nhận). Đây cũng là mục tiêu lớn nhất của cơ sở, hiện nay, chỉ mới bao tiêu về khâu thu mua - sản lượng. Tới đây, cơ sở sẽ đưa ra một quy trình sản xuất sạch hơn, sẽ tiến đến bao tiêu về giá cả trong 1 năm cho bà con nông dân nào muốn tham gia. Có hệ thống quản lý chất lượng vùng nguyên liệu như vậy thì mẫu mã, sản lượng sẽ tăng lên, hướng xuất khẩu với số lượng nhiều hơn và giá trị gia tăng cho BDX của bà con nông dân sẽ cao, bền vững hơn” - anh Hưng cho biết.

Hiện nay, cơ sở của anh đã được đầu tư dây chuyền sản xuất tự động (năm 2011 được hỗ trợ đầu tư máy rửa và kho trữ lạnh). Thế nhưng theo anh, sắp tới, nếu như phía đối tác Nhật đồng ý như yêu cầu của anh và tạo ra được máy lựa, phân loại (kích cỡ, độ dầy của vỏ, độ ngọt, công suất và độ chính xác cao) thì “giá nào” anh cũng quyết tâm bỏ vốn để đầu tư. Bởi hiện nay, các mặt hàng từ BDX muốn xuất khẩu được sang các thị trường khó tính thì phải là sản phẩm sạch, mẫu mã đồng đều, chất lượng tốt nhất (cơ sở của anh đã xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới, có thị trường ổn định ở các nước châu Âu, châu Á).

Trước lúc chia tay anh ra về, tôi hỏi, anh nghĩ gì về hợp tác xã kiểu mới hiện nay. “Đó là xu thế tất yếu, tất cả đều có lợi ích khi tham gia vào hợp tác xã. Vì ở đó, người nông dân sẽ liên kết được tất cả các nhà: nhà nước, nhà khoa học và nhà doanh nghiệp” - anh Hưng khẳng định.

Thành Lập

Chia sẻ bài viết

BÌNH LUẬN